Vào một ngày đẹp trời và khi mọi việc đều xảy ra như dự
tính, đây chính là lúc mà chúng ta dễ phát hiện xu hướng không bao giờ hài
lòng, thích than phiền và phê phán trong tâm. Chúng ta thấy rằng thế gian nầy
chỉ có thể đẹp đến thế mà thôi. Trong khi quán tưởng về thế gian nầy, bạn
sẽ thấy là đối với con người, cái đẹp luôn có giới hạn; và trí tuệ là
cái giúp chúng ta thấy được giới hạn của mình. Chúng ta cần thấy và quán
tưởng về những giới hạn nầy để biết cái gì là tối ưu mà mình có thể
chờ đợi trên thế gian nầy. Nếu không, chúng ta sẽ có xu hướng đòi hỏi
và than phiền, ngay cả khi mọi việc đều ở trạng thái tốt đẹp nhất của
nó. Khả năng tư duy và tưởng tượng của con người cho chúng ta tiềm năng
hình dung ra những cái thậm chí đẹp hơn những cái đẹp nhất đang có mặt
trong hiện tại.
Xã hội cũng thế, nó không bao giờ toàn hảo. Chúng ta có thể hình
dung ra một mô hình xã hội lý tưởng nào đó rồi dùng nó làm tiêu
chuẩn để xây dựng và phát triển xã hội hiện tại. Nhưng chúng ta không
thể đòi hỏi xã hội phải mãi mãi toàn hảo, bởi vì sự toàn hảo tự nó không
thể nằm ngoài quy luật vô thường, vì mọi vật đều không ngừng biến đổi và
không có gì đứng yên một chỗ. Cũng như một đóa hoa hồng đang nở ra
đầy đặn, với nét đẹp tuyệt vời và hương thơm ngào ngạt, nhưng nó sẽ úa tàn, xã
hội cũng thế, nó phát triển đến tột đỉnh rồi sẽ bại hoại và tan rã. Đây là
dòng vận động tự nhiên của tất cả hiện tượng của thế giới hữu vi. Bất
cứ điều kiện nào được sinh khởi và tạo tác trong cõi dục
giới đều vận động theo mô hình nầy.
Quán sát sự sinh và diệt của các hiện tượng do nhân duyên hợp
thành giúp chúng ta hiểu được thế giới hữu vi.Nó sẽ giúp chúng ta thoát ra
khỏi sự ràng buộc của tiến trình sinh và diệt của thế gian và tấm thân vật lý
nầy -- chúng ta sẽ không còn sống như một chúng sanh bơ vơ không nơi nương tựa,
hoàn toàn mù tịt, không biết gì hết ngoài những điều kiện không ngừng sinh
diệt nầy. Thật ra, con người có khả năng vượt lên trên thế giới nầy, vượt lên
trên cái xã hội mà họ đang sống, vượt lên trên tấm thân vật lý và tự ngã
của chính họ. Chúng ta có khả năng vượt lên trên tất cả những gì chúng ta có
thể nghĩ bàn hay tin tưởng, cho dù đó là những gì thân thương và quý báo
nhất, hay là những gì đáng ghê sợ nhất.
LÝ TƯỞNG "VƯỢT LÊN TRÊN CUỘC ĐỜI " CỦA XÃ HỘI
TOÀN HẢO
"Vượt lên trên cuộc đời" (tiếng Anh là transcendence)
nghĩa là gì? Cụm từ "vượt lên trên cuộc đời" hình như gợi
cho chúng ta ý nghĩa về sự lìa bỏ toàn bộ thế giới nầy để đi đến một trú
xứ khác. Đối với nhiều người, "vượt lên trên cuộc đời" nầy có
nghĩa là rời bỏ, không còn mảy may để ý hay quan tâm đến thế giới nầy, và hoàn
toàn sống trong một cảnh giới khác.
Tuy nhiên trước khi đi sâu vào vấn đề nầy, chúng ta hãy
quán tưởng thêm về cái mà chúng ta gọi là thế gian hay thế giới. Do huân tập
của nhà trường và các khoa học địa lý tự nhiên, chúng ta có khuynh hướng
xem trọng thế giới vật chất và từ đó, chúng ta xem thế giới là những
gì được vẽ trên bản đồ hay là quả địa cầu gồm những quốc gia mà
chúng ta biết được. Chúng ta cho thế giới nầy là cái hành tinh có tên
là Trái Đất, và vì thế, muốn vượt lên trên thế giới nầy, bằng cách
nào đó chúng ta phải thoát ly khỏi nó -- thí dụ như đi lên mặt
trăng chẳng hạn. Tuy nhiên, khi nói về thế giới, người Phật tử không nói
về cái thế giới ở bên ngoài mà chúng ta thường biết. Trái lại, họ nói về cái
thế giới bên trong, hay nói khác đi, họ nói về tâm, bởi vì tâm mới thật sự
là cái thế giới mà chúng ta đang sống. Ngay cả khái niệm về thế giới
hay thế gian mà chúng ta đang thảo luận hiện nay cũng là một khái niệm
xuất phát từ tâm. Tất cả những quan điểm về thế gian, bản thân con người,
những chúng sinh khác, và các hành tinh khác thật ra cũng chỉ là những khái
niệm được tạo tác và sinh khởi trong tâm; chúng sinh rồi diệt trong tâm.
Chúng ta thường cho thế giới là cái chỉ có ở bên ngoài; chẳng hạn như khi nói,
"Chúng tôi sẽ đi học và nghiên cứu về thế giới," chúng ta muốn
nói là chúng ta sẽ đi đến những nước trên thế giới để học. Nhưng
sự thật không phải thế. Bạn không cần phải đi đâu hết để thấy được thế
giới và vượt lên trên chính nó. Bạn chỉ cần mở rộng tâm thức của mình, rồi bạn
sẽ thấy thế giới đang vận hành như chính nó, và bạn sẽ thấy là tất cả các
pháp thế gian đều do duyên khởi, chúng đến rồi đi, sinh rồi diệt
không ngừng.
Ngay trên thế gian nầy, khi mở rộng tâm thức, chúng ta sẽ
thấy được sự toàn hảo của các pháp. Bạn hãy tưởng tượng ra tất cả những
màu sắc toàn hảo hơn màu sắc của các loài hoa trên trái đất nầy. Bạn
sẽ thấy là chúng ta thường thiết lập những tiêu chuẩn toàn hảo dựa trên những
gì mình đã thấy và biết được: Thước đo thẩm định của chúng
ta thường dựa vào kinh nghiệm quá khứ. Nhưng cái đẹp tự nó luôn thay đổi;
nó không đứng yên một chỗ. Thời tiết bốn mùa cũng thay đổi. Tất cả lá
cây rồi sẽ phải lìa cành, tất cả bông hoa rồi sẽ héo úa. Mọi vật đều ảm
đạm và buồn tẻ trong mùa đông khi không gian không có màu sắc gì khác
ngoài những nét đậm và nhạt, đen và trắng. Bây giờ, nếu chúng ta yêu
thích những màu sắc rực rỡ, những bông hoa xinh đẹp, và sức sống mới mẻ
của mùa xuân, chúng ta sẽ cho là mùa xuân đẹp hơn
mùa đông. Nhưng nếu biết mở rộng tâm thức để tiếp nhận
mùa đông, chúng ta cũng sẽ thấy được vẽ đẹp tinh tế của nó. Rồi chúng
ta sẽ chiêm ngưỡng sự vắng bóng của các sắc màu rực rỡ và sự tĩnh lặng của
mùa đông giống y như chúng ta đã ngưỡng mộ các sắc màu rực rỡ và
sinh lực tràn đầy của mùa xuân.
Chúng ta chiêm ngưỡng sự toàn hảo không phải vì thấy nó trong tư
thế đứng yên và bất biến. Chúng ta chiêm ngưỡng sự toàn hảo vì
thấy được nó trong dòng vận động của các pháp giống như chúng ta
thấy sự toàn hảo của đóa hồng trong cả bốn mùa xuân, hạ,
thu, đông. Nếu muốn có một sự toàn hảo cố định và bất biến,
chúng ta không cần phải mất công sức chi hết; chỉ cần tìm một hoa hồng bằng
nhựa để ngắm, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ hài lòng về đóa hoa
nhựa nầy. Quán tưởng theo cách này, tâm của chúng ta sẽ mở rộng và tiếp
cận với sự toàn hảo của thiên nhiên và thế giới hữu vi. Quan điểm của chúng
ta về sự toàn hảo sẽ không cònđứng yên và cố định nữa. Chúng ta sẽ
thấy là không có một tiêu chuẩn duy nhất cho sự toàn hảo, và khi mọi việc không
xảy ra như ý chúng ta muốn, sự toàn hảo vẫn có mặt trên thế gian nầy. Chúng ta
không chấp chặt vào một tư tưởng bất biến và cố định là thế giới phải như
thế nầy. Ngược lại, chúng ta sẽ thấy thế giới nầy một cách sinh động, thật
sự như nó đang là và đang xảy diễn.
Vượt lên trên thế gian (transcendence) có nghĩa là
không chấp hay bám víu vào thế giới nầy; tuy nhiên, nó cũng không có nghĩa là
chúng ta sẽ bồng bềnh trôi nổi trên bầu trời hoàn toàn cách ly với
trái đất. Nó có nghĩa là chúng ta vẫn sống trong thân xác con người
nầy, giữa thế giới hữu vi nầy mà vẫn không bị nhiễm ô hay hiểu sai lạc về nó.
Khi chúng ta quán chiếu và suy tưởng về cuộc sống đến mức độ có thể thấy
nó rõ ràng như chính nó, lúc đó, có thể nói là chúng ta đã "vượt
lên trên thế giới nầy." Vì thế, trong tiến trình vượt lên trên thế gian,
chúng ta vẫn có thể làm việc và sống ngay trong cuộc đời nầy, nhưng cuộc
sống chúng ta sẽ rất trong sáng và thanh tịnh vì lúc đó chúng ta không còn
bất kỳ một ảo tưởng nào về nó. Chúng ta không thể đòi hỏi thế giới nầy
phải là cái gì khác ngoài những gì nó đang là -- và thế giới đó chính
là tâm của chúng ta.
Trong tiếng Pali, từ "Arahant" hay A La
Hán có nghĩa là người đã tận diệt tất cả nhiễm ô hay những quan
kiến sai lạc về bản chất của thế gian. Đó là từ mà chúng tôi dùng để mô tả
một con người hoàn hảo và toàn bích -- con người đã vượt lên trên thế gian
nầy, nhưng vẫn sống trong thế gian nầy, và làm việc vì lợi lạc của tất cả chúng
sinh khác. Nếu bạn đã từng nhìn thế gian nầy qua nhãn quan của tự ngã
và đã buông bỏ những quyền lợi ích kỷ của mình trong thế gian, thì còn gì
phải làm nữa chứ? Nếu đã vượt lên trên bản ngã, chắc chắn là bạn sẽ không
còn sống cho cái bản ngã hoang tưởng đó nữa. Người mà hoàn toàn vượt
lên trên bản ngã sẽ khôngđòi hỏi gì hết, dù đó chỉ là sự biết ơn hay một
lời khen ngợi. A La Hán là một người sống vì lợi lạc của người khác và xã hội.
Vì thế, chúng ta có thể nói rằng xã hội toàn hảo là xã hội của những người giác
ngộ, xã hội của những vị A La Hán đã "vượt lên trên thế gian
nầy".
NHỮNG ĐỨC TÍNH CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO TRÍ TUỆ
Khi quán tưởng về xã hội toàn hảo, chúng ta cũng nên suy nghĩ về
vai trò của người lãnh đạo toàn hảo, vì hai vấn đề nầy có liên quan
với nhau. Trong kinh điển Pali có nêu ra mười vương pháp (rajadhamma)
hay mườiđức tính và bổn phận của người lãnh đạo trí tuệ.
Đức tính đầu tiên là dana, hay rộng lượng và
bố thí. Bất cứ nhà lãnh đạo nào, cho dù đó là một vị thống lãnh
toàn cầu, thủ tướng, tổng thống, hay chủ tịch của bất cứ tổ chức chính trị xã
hội nào, trước hết phải là người rộng lượng bố thí vì đây là đức tính
khai mở tâm thức con người. Bạn chỉ cần quán tưởng về hành động hiến
dâng mà không mong chờ được đáp lại. Khi chúng ta cho ai những gì mà
chúng ta trân quý, hành động nầy sẽ làm cho tâm chúng ta rộng mở. Và
hành động hiến dâng nầy làm cho tình cảm cao thượng nẩy nở trong chúng ta.
Con người chỉ đẹp và cao thượng nhất khi họ có thể hiến dâng những gì mà
họ mong muốn và thương yêu cho người khác.
Đức tính thứ hai là sila, hay đạo đức và
giới hạnh. Một người lãnh đạo phải là người có giới đức hoàn toàn
trong sạch, một người mà bạn có thể hoàn toàn tin tưởng. Bạn có thể đồng ý
hay không đồng ý với đường lối, chính sách hay lập trường của vị ấy; điều nầy
không quan trọng lắm; nhưng quan trọng nhất là đạo đức trong sạch của
vị ấy, vì không ai có thể tin tưởng một người thiếu đạo đức. Người ta
thiếu niềm tin và nghi ngờ những người không dứt khoát tránh xa những
hành động tàn nhẫn, giết người, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu và sử
dụng các chất ma túy. Trên đây là sila hay những giới đức cơ bản mà
nếu là Phật tử, bạn phải luôn giữ gìn cho trong sạch.
Đức tính thứ ba là pariccaga, hay hy sinh.
Đức tánh nầy có nghĩa là bạn từ bỏ hạnh phúc cá nhân, cuộc sống an toàn, và
tiện nghi của mình vì lợi lạc của toàn thể dân tộc. Chúng ta cần xem xét
kỷ đức tính hy sinh. Bạn có sẳn sàng hy sinh những tiện
nghi, đặc quyền đặc lợi, và thuận lợi riêng tư cho hạnh phúc gia đình
bạn không? Trong nửa thế kỷ qua, con người gần như coi thường đức tính hy
sinh; họ cho hy sinh là đồng nghĩa với ngu ngốc, ngây thơ, và khờ
dại. Hình như xu hướng chung của con người ngày nay là nghĩ đến quyền lợi
riêng của họ trước nhất, là đòi hỏi "Nhà nước nầy đã làm gì cho
tôi? Tôi bòn rút được gì từ chính phủ nầy?" Nhưng bản thân tôi, bất
cứ lúc nào suy nghĩ theo chiều hướng này, tự nhiên tôi thấy lòng tự trọng của
mình bị sút giảm. Ngược lại, khi tôi hy sinh bản thân mình cho người khác, tôi
thấy đây là điều đúng cần phải làm. Buông bỏ quyền lợi, tiện lợi, và
tiện nghi cá nhân vì lợi lạc của người khác là những gì mà bây giờ mỗi khi nhìn
lại, tôi không bao giờ hối tiếc là mình đã làm.
Đức tính thứ tư là ajjava hay chân thật
và chính trực. Đức tính nầy không chỉ có nghĩa là không lừa dối kẻ khác mà
còn là thành thật với chính bản thân mình. Để chân thật với chính mình, không
đổ lỗi hoặc lên án bản thân mình hay người khác, hay không còn hiểu sai lạc về
cuộc đời, tâm bạn phải trong sáng, không còn bị hoen ố bởi tham ái hay sợ hãi.
Đức tính thứ năm là maddava hay tử tế và
hiền dịu. Sống ở phương Tây, tôi nhận thấy người ta rất khát khao được
đối xử tử tế và hiền dịu, và khát khao đó đã trở thành lý tưởng của nhiều
người. Nhưng trong thực tế, con người lại rất khắc nghiệt và tàn nhẫn với chính
bản thân họ và những người chung quanh; họ thường phê phán gay gắt, phản ứng
giận dữ, và xem sự tử tế và hiền dịu là cái gì ủy mị và ướt át. Ở phương Tây,
sự hiền dịu được xem là biểu hiện của một tâm hồn yếu đuối. Vì
thế mà tại tu viện, chúng tôi nhấn mạnh việc hành thiềnmetta hay rải
tâm từ cho chính bản thân mình và người khác. Khi đặt ra những
tiêu chuẩn hay lý tưởng quá cao, chúng ta thường thiếu tâm từ; chúng ta sẽ
luôn đòi hỏi cuộc đời phải như thế nầy, phải như thế nọ, và sẽ bất
mãn với những gì xảy ra trong thực tế. Sự bất mãn nầy sẽ làm chúng ta sân hận
và trở nên ác độc. Ngườiđời thường xem đức tính tử tế và hiền dịu chỉ
có ở những người "ba phải" và yếu đuối, nhưng đó chính
là đức tính mà người lãnh đạo trí tuệ cần phải có.
Đức tính thứ sáu là tapa, nghĩa là tiết chế,
tự chủ -- biết từ khước những gì không cần thiết cho mình. Đức tính
thứ bảy là akkodha, nghĩa là không nóng nảy, không bồng
bột, không liều lĩnh, và bình tĩnh. Đây là điều khó làm vì con người rất khó
bình tĩnh trước những rối loạn, hổn độn, và nghịch cảnh của cuộc sống. Trái
lại, hành động theo bản năng, nói năng hay phản ứng cho thỏa cơn giận
thường là dễ hơn.
Đức tính thứ tám là avihimsa, nghĩa là không
bạo động, không dùng bạo lực với bất cứ chúng sanh nào, không đàn
áp hay áp đặt ý chí của mình trên người khác. Tâm kiêu mạn, tự cho mình là
cao thượng và đạo đức cũng là một thái độ của kẻ cả và có tính
đàn áp phải không các bạn? Sống bên cạnh những người có những đòi hỏi và
tiêu chuẩn cao, bạn sẽ bị họ xem thường và đánh giá thấp. Cho dù
những người nầy chủ trương bất bạo động và nghĩ là họ không có chủ tâm
bạo động, nhưng bản thân sự kiêu ngạo và tự phụ của họ là một thái độ
bạo động. Vì thế, những người hay rêu rao những tiêu chuẩn đạo đức
cao cả cũng thường là những người đạo đức giả. Và ngay bây giờ, khi
bàn về vấn đề đạo đức, một số bạn trong chúng ta có thể rất căng thẳng và
khó chịu vì họ nhìn đạo đức như là một cái gì nặng nề và áp chế, giống như
nước Anh vào thời nữ hoàng Victoria, người ta đã sử dụng những tiêu
chuẩn đạo đức để hăm dọa và khủng bố người khác. Nhưng đó không phải
là avihimsa hay bất bạo động. Avihimsa là đối
nghịch lại với áp đặt và đàn áp.
Kế đến là đức tính khanti, hay nhẫn
nhục, chịu đựng, và tha thứ. Muốn không đàn áp người khác, không
bị sân hận chi phối, chúng ta phải kiên nhẫn. Chúng ta phải tập chịu đựng
những điều phiền toái, bực bội, trái ý, đáng ghét, và xấu xa. Chúng ta phải
chịu đựng thay vì phản ứng dữ dội, tìm cách đàn áp, hay thủ tiêu nó.
Đức tính cuối cùng là avirodhana, nghĩa là không đi
sai đường, sống hợp với lẽ đạo, sống theo đúng chánh pháp. Cụm từ
"không đi sai đường" dường như là một mệnh lệnh phải
không các bạn? Khi tự cho mình làđúng, chúng ta thường trở nên độc đoán;
bản thân tôi đã thấy điều nầy trong chính tôi. Khi tức giận người
khác vì cho mình là đúng và họ là sai, tôi có thể trở thành dữ tợn
và đối xử tàn tệ với người khác giống như tinh thần của lời phán
trong Kinh Cựu Ước: "Ngươi không được phép làm như thế!" Tôi quả
thật đáng sợ khi tự cho mình là người nắm chân lý. Nhưng avirodhana không
phải là cái đúng của bậc gia trưởng độc tài; trái lại, nó là trí tuệ biết
cái gì là đúng đắn, hợp thời và đúng chỗ. Ở phương Tây, chúng ta
có khuynh hướng cho hễ cái gì hợp lý và lô gích thì cái đó
là đúng. Vì thế bất cứ cái gì có vẽ hợp lý, ta đều cho
là đúng, trong khi cái gì phi lý, thì cho là sai. Chúng ta không tin ở cái
bất hợp lý. Nhưng khi bị lý luận và lô gích trói buộc, chúng ta thường mất kiên
nhẫn vì tâm của chúng ta không đủ mở rộng để nắm bắt những nhịp đập và
dòng chảy của tình cảm. Chúng ta không thấy được cái bao la của cuộc
sống. Chúng ta bị dính chặt vào thời gian, năng suất công việc, sự thông
minh nhanh nhẹn của tư duy, và sự toàn hảo của lý luận đến nỗi chúng ta
ngộ nhận những gì tạm thời và chóng qua là thực tại và chân lý, và không thể
ghi nhận được khoảng không gian phủ trùm chung quanh chúng ta. Vì thế khi
bị kẹt trong lý luận và lô gích, chúng ta sẽ chối bỏ, quên lãng, và triệt tiêu
thế giới tình cảm trong đó có tất cả cảm xúc, trực giác, và tâm linh của
con người.
Đức tính Avirodhana, hay sống theo chánh
Pháp, đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và vững vàng để sống nhu thuận
theo chánh Pháp. Lý do duy nhất khiến chúng ta không thể sống theo chánh Pháp
là vì chúng ta không quan sát, thấy và biết được Pháp. Là con người,
chúng ta có xu hướng dễ tin vào bất cứ điều gì, vì thế chúng ta có
thể đi theo bất cứ hướng nào và chấp nhận bất cứ truyền thống tôn giáo
nào. Nhưng khi đã thấy được Pháp, chúng ta chỉ còn một xu hướng duy
nhất, đó là sống hòa thuận theo sự vận hành của chánh Pháp mà thôi.
ĐI TÌM NGƯỜI LÃNH ĐẠO TRÍ TUỆ BÊN TRONG CHÚNG TA
Trên đây là mười rajadhamma hay vương
pháp, tức là mười đức tính của bất cứ vị lãnh đạo nào. Chúng ta
có thể nghĩ rằng, "Đó chỉ là những giới hạnh dành riêng cho các ông thủ
tướng hay tổng thống. Có lẽ chúng ta nên gởi các vị đó danh sách mười
vương pháp nầy để họ tự rèn luyện." Nhưng chúng ta cũng có thể đặt
vấn đề ngược lại, "Phải chăng vị lãnh đạo tinh thần nầy cũng có mặt
bên trong chúng ta? Làm thế nào để chúng ta có thể tiếp cận với vị
lãnh đạo bên trong đó?" Đây là một cách để quán tưởng.
Bạn có thể áp dụng những đức hạnh nầy vào cuộc sống riêng,
thay vì xem chúng như những mẫu mực chỉ dành cho các nhà lãnh đạo thế
giới. Nếu chúng ta tìm cách đánh giá một vị tổng thống hay thủ tướng
xem họ đã bố thí, giữ giới, hay hy sinh như thế nào, chắc chắn cuộc bàn cải sẽ
vô cùng lý thú và sôi nỗi. Nhưng làm như thế chẳng lợi ích gì. Làm như thế,
chúng ta chỉ nhìn thấy vấn đề của người khác mà không thấy vấn đề của
mình, chúng ta muốn họ phải sống đạo đức trong khi bản
thân chúng ta lại không sống đạo đức -- nói khácđi, không
biết tu sửa tâm tính của mình. Tuy nhiên, khi càng tìm cách phát huy người
lãnh đạo trí tuệ bên trong, lắm khi, chúng ta lại càng dễ tìm được
người lãnh đạo trí tuệ từ xã hội bên ngoài.
Hàng ngày, chúng ta có thể hướng cuộc đời của mình đến
những đức hạnh nầy. Chúng ta không nên xem chúng như những tiêu
chuẩn đạo đức để đánh giá rồi than thở: "Ôi thôi, tôi
chưa đủ rộng lượng và bố thí; Giới hạnh tôi chưa đủ tốt; Tôi quá ích
kỷ và không thể hy sinh cho kẻ khác." Nhưng mỗi ngày, chúng ta nên suy
tưởng về những đức tính nầy hầu nuôi dưỡng tâm nguyện sống đời đạo đức và
thánh thiện. Để làm việc nầy, chúng ta nên biết và hiểu con người chúng ta như
chính nó, thay vì đánh giá là nó phải như thế nầy hoặc phải như thế nọ. Và khi
hiểu được chính mình, chúng ta sẽ hiểu được người khác, và rồi chúng
ta sẽ bắt đầu hiểu được xã hội loài người.
Do đó, một xã hội toàn hảo chỉ có với những con người toàn
hảo. Và thế nào là một con người toàn hảo? Người mà không còn bị nhiễm ô hay
bất kỳ ảo tưởng nào về thế giới nầy, người mà đã vượt lên trên thế
giannầy, đó chính là người toàn hảo. Khi con người không còn một tư
tưởng hay không còn dính mắc vào một tháiđộ hay quan điểm dựa trên tự ngã,
lúc đó tâm rộng lượng và bố thí tự nhiên sẽ xuất hiện. Họ sẽ tự động
chia sẻ với người khác những gì họ có. Chỉ cần biết là người khác đang cần
gì, họ sẽ sẵn sàng chia sẻ thêm những gì họ có. Từ đó, xu hướng tích lũy
và chiếm hữu cá nhân trong họ sẽ giảm và yếu dần.
Trên thế giới ngày nay, chúng ta thấy có một sự cách biệt rất lớn
giữa thế giới phương Tây giàu có và Thế giới thứ ba nghèo đói. Mức
sống của chúng ta rất cao, trong khi mức sống của đa phần các dân tộc trên
thế giới rất thấp. Thậm chí nhiều người không đủ ăn. Chúng ta có thể
cho điều nầy là sai trái. Chúng ta có thể hoặc lên án thế giới phương Tây,
hoặc biện minh cho sự giàu có của chúng ta và tỏ lòng thương hại Thế giới thứ
ba.
Nhưng thật ra chúng ta có thể làm gì để giải quyết tệ nạn
nầy? Như những cá nhân, chúng ta không thể tácđộng trên nhà nước và các vị
lãnh đạo phương Tây giàu bắt buộc họ phải thật sự thay đổi đường lối
và chính sách. Nhưng chúng ta có thể thay đổi quan hệ giữa chúng ta và xã
hội, phải không các bạn? Chúng ta có thể tập hành thiền. Và chúng ta có thể tập
sống để mỗi ngày có thể vị tha hơn và chia sẻ với người khác những gì mình
có. Và rồi chúng ta sẽ tìm được niềm vui trong khi chia sẻ vì chia sẻ tự
nó là một phần thưởng -- một phần thưởng tự nhiên đến. Nó không phải
là phần thưởng mà chúng ta mong đợi người khác mang đến cho mình.
Chúng ta có thể quán tưởng về sila hay giới
hạnh, và tự hỏi mình có thể làm gì để không hãm hại sinh mạng của các
chúng sinh khác. Chúng ta có thể tránh xa những hành động và lời nói
bạo động, những hành động bốc lột, chia rẽ, gây hoang mang, phiền
não, và tuyệt vọng cho người khác. Chúng ta có thể thực tập -- với giađình, bè
bạn, và những hội đoàn xã hội -- làm sao để có một đời sống bình an
và đạo đức, trong đó chúng ta trách nhiệm về lời nói và việc làm của mình.
Chúng ta có thể quán tưởng về đức tính pariccaga hay hy
sinh. Sống hy sinh không có nghĩa là mềm lòng "xả thân
vì đạo" để cứu rỗi những số phận không may mắn. Hy sinh không có
nghĩa là chúng ta lăn xả can thiệp vào việc của người khác mà là không còn xem
mình quan trọng hơn người khác. Muốn làm được điều nầy, trước hết, bạn
phải hiểu chính bạn. Hy sinh mà không hiểu chính mình thì bạn sẽ trở thành
một người "xả thân vì đạo" tình cảm và yếu đuối. Sự hy
sinh phải đến từ một tâm thức sáng suốt chứ không phải từ những tình cảm
yếu mềm.
Chúng ta có thể quán tưởng về đức tính ajjava,
hay trung thực và chính trực và đức
tính madava hay tử tế và hiền dịu. Chúng ta có thể
ứng xử dịu dàng và tử tế với cuộc đời. Lý do chúng ta thiếu tử tế
không phải vì chúng ta không muốn tử tế; mà là vì chúng ta thiếu kiên
nhẫn để tử tế với cuộc đời. Muốn tử tế với người khác, bạn phải kiên
nhẫn. Để dịu dàng với cuộc đời, bạn phải nhẫn nhục và chịu đựng; bạn không thể
vì quyền lợi riêng tư mà bắt buộc cuộc đời phải chiều theo ý của bạn. Tử tế có
nghĩa là bạn đang tập -- từ những vịệc nhỏ nhặt hằng ngày -- để trở
nên hiền dịu và cởi mở, nhất là nhẫn nhục với những gì trái ý mình. Cởi mở với những
gì bạn yêu thích là rất dễ. Thí dụ như chúng ta rất dễ tử tế với những đứa
bé ngoan ngoản và dễ thương, nhưng chúng ta không dễ gì tử tế với những phiền
muộn, bực dọc, hay bất toại nguyện phải không các bạn? Chúng ta phải thật cố
gắng để không phản ứng chống lại với những gì trái ý của mình. Để làm được
việc trên, chúng ta phải tập làm quen với những phiền muộn nhỏ nhặt trong cuộc
sống hàng ngày -- hãy cố gắng tử tế, hiền dịu trong những tình huống dễ biến
chúng ta thành người khó chịu, phán đoán, và độc ác.
Chúng ta có thể quán tưởng đức tính tapa hay tự
chủ, không dễ duôi, kham khổ chịu đựng. Hiện nay, nhiều người rất
sợ khi nghe đến hai chữ kham khổ; Kham khổ chịu đựng dễ làm
người ta chùn bước. Nhưng bạn nên tự hỏi bao nhiêu là đủ và bao nhiêu là
thừa. Đây là thói quen rất tốt. Đặt câu hỏi nầy không phải là để đánh giá
và phê phán; trái lại, nó sẽ giúp bạn ghi nhận thế nào là đủ, thế nào là cần
thiết, và thế nào là cuộc sống nghiêng về lợi dưỡng. Điều nầy đòi hỏi chúng ta
phải tỉnh giác, chính trực, và chân thật.
Chúng ta có thể quán tưởng đức tính akkodha,
hay không nóng nảy, không bộp chộp; đức tính avihimsa,
hay bất bạo động và nhân đạo; đức tính khanti,
hay nhẫn nhục và chịu đựng; và đức tính avirodhana,
haykhông theo tà đạo, đi đúng chánh pháp. Càng ý thức về
những đức tính nầy, chúng ta sẽ càng thể hiện chúng trong cuộc sống của
mình.
MỞ RỘNG VÀ TIẾP THU NHỮNG ĐỔI THAY CỦA XÃ HỘI
Chúng ta sẽ thất bại nếu chỉ biết trao dồi đạo đức bằng cách
suy nghĩ về đạo đức. Làm như thế chúng ta sẽ chỉ biết phê phán và dày vò
chính mình. Làm như thế cũng giống như chúng ta đánh giá đóa hoa hồng
trong hiện tại với lúc nó nở đẹp nhất, giống như so sánh nụ hoa hồng
và đóa hoa hồng tàn héo với đóa hoa hồng vào thời điểm đẹp nhất
của nó. Cách so sánh này sẽ thúc đẩy xu hướng không hài lòng
và đòi hỏi trong chúng ta, "Tôi không thích điều nầy, mọi việc
phải như thế nầy." Nhưng nếu chúng ta xem sự vận hành của thế gian
nầy là một quá trình không ngừng thay đổi, chúng ta sẽ ngưỡng mộ và thưởng
thức cho dù nó ở trạng thái hay giaiđoạn nào đi nữa. Chúng ta sẽ
không còn đóng khung và ép chặt nó vào một mô hình cứng nhắc và không còn
phán đoán mọi việc theo một quan điểm cố định nào đó.
Chúng ta có thể áp dụng cái nhìn nầy vào xã hội và bản thân chúng
ta. Chúng ta nhận thấy là dù xã hội sẽ không bao giờ toàn hảo, cũng
như đóa hoa hồng, nó sẽ tiến đến tột đỉnh của nó. Và rồi chúng ta có
thể quán tưởng về xã hội hiện nay và đặt câu hỏi, "Xã hội chúng
ta đã phát triển đến giai đoạn nào rồi? Nó đã đến tột đỉnh
hay đang trên đà xuống dốc?" Chúng ta có thể không hài lòng và lên
án, "Xã hội hiện nay đã suy sụp và không giống như trước nữa, nó
không thể như thế nầy được" và cứ tiếp tục phê phán như thế
cho đến lúc chúng ta trở nên chán nãn và chống ghét vì xã hội không còn
ở đỉnh cao nữa. Nhưng nếu chúng ta chỉ đơn giản đặt câu hỏi,
"Xã hội đang ở giai đoạn nào đây?" thì có lẽ điều nầy
sẽ hữu ích hơn. Khi cởi mở và tiếp nhận những thay đổi bên ngoài và
bên trong chúng ta -- nói khác đi, khi mở rộng tâm để thấy được sự vận
hành của các Pháp -- chúng ta sẽ hòa vào dòng chảy của cuộc sống và qua đó
sẽ giúp xã hội phát triển tốt đẹp và lành mạnh hơn.
*
* Câu hỏi: Đạo Phật có đánh giá cao một mô
hình xã hội đặc biệt nào không? Thí dụ như đạo Phật có cho xã hội dân chủ
là tốt hơn xã hội quân chủ không?
Trả lời:
Trong đạo Phật, chúng tôi không đưa ra một mô hình xã hội toàn hảo nào cả;
như xã hội quân chủ hay dân chủ, xã hội chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa chẳng
hạn. Vào thời đức Phật, hình như không có nhiều thể thế chính trị để
người ta lựa chọn. Chế độ quân chủ là mô hình phổ biến của
thời đó, mặc dù xen kẽ cũng có những nhà nước dân chủ sơ khai. Nhưng ngay
trong thời kỳ ấy, chế độ quân chủ cũng không phải là một chế độ độc
tài trong đó nhà vua có quyền thay trời trị dân, muốn làm gì thì làm và
không quan tâm gì đến đời sống của dân chúng. Ngày nay, chúng ta
thường cho vua chúa là những kẻ tha hóa và hủ lậu, nói khác đi chúng ta
cho quân chủ là chế độ của một nhóm ít người có đặc quyền đặc lợi
mà đa số dân chúng phải khổ cực phục dịch cho họ -- nhưng thật ra, lý
thuyết của chế độ quân chủ thường xuất phát từ những tiền đề hợp lý
và đúng đắn. Khi ra đời, chế độ quân chủ không nhắm trở
thành độc tài, mặc dù trong nhiều trường hợp thực tế, nó đã trở
nên độc tài; (...)
Nền dân chủ phương Tây, với tất cả những gì được gọi là tự do
của nó, có khuynh hướng đưa chúng ta đến chỗ tự hủy hoại và tha hóa. Các
bậc cha mẹ ở phương Tây không ngừng lo lắng cho con cái. Cha mẹ không còn khả
năng hướng dẫn con cái trở thành người tốt vì con cái ở phương Tây có thể làm
bất cứ điều gì chúng muốn. Hình như chúng ta không có quyền hướng dẫn con người
hướng về Chân, Thiện, và Mỹ nữa. Chúng ta chỉ còn có thể nói, "Bạn được
tự do làm những gì bạn muốn."(...)
Thật ra, trong thực tế, tất cả những cơ cấu xã hội trên thế giới
hiện nay đều có thể vận hành tốt nếu chúng ta hiểu biết nó một
cách đúng đắn. Không có gì sai trái với những cơ cấu chính trị hiện
nay trên thế giới cả; các cơ quan nhà nước tự nó đều không tệ. Cái
chúng ta đang thiếu là những con người giác ngộ, những con người có thể
nhìn thấy mọi việc một cách sáng suốt và rõ ràng.
-------------------------------------
Thiền
Giữa Đời Thường: Phương pháp Thiền Phật giáo nguyên thủy
(Thiền Vipassana)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét