Nhiều người xem tự do là lý tưởng của cuộc sống. Chúng ta ai cũng
muốn được một số tự do nào đó như tự do có thân mạng và đi lại,
tự do tôn giáo, hay tự do trong đời sống tình cảm. Không ai muốn bị
tù đày, trói buộc, hay kiềm kẹp, vì thế tự do trở thành một lý tưởng. Tự
do là một khái niệm quan trọng mà chúng ta cần quán tưởng vì không phải lúc nào
chúng ta cũng hiểu đúng đắn ý nghĩa của hai chữ tự do.
Trong cuộc sống, phần lớn chúng ta dành rất nhiều thời giờ để
sống cho lý tưởng của mình, và xã hội nầy đã cung cấp rất nhiều lý
tưởng để chúng ta theo đuổi. Tự do là một trong những lý
tưởng đó. Nhưng nếu chỉ theođuổi mà không hiểu với trí tuệ ý nghĩa
thật sự của lý tưởng đó, không chóng thì chầy, chúng ta sẽ thất vọng, vì
hình như cuộc đời nầy không bao giờ cho chúng ta tất cả tự do mà chúng ta
mong muốn hay nghĩ là chúng tađáng được thọ hưởng.
ĐI TÌM TỰ DO TRONG THAM ÁI
Chúng ta có thể mãi mãi thất vọng với cuộc đời, không phải vì
cuộc đời nầy là xấu xa và đáng chán, mà vì nó sẽ không cho chúng ta
những gì chúng ta muốn hay nghĩ là chúng ta đáng được thọ
hưởng. Chúng ta thường nghe chính bản thân chúng ta than phiền, "Cuộc đời
nầy thật là không hợp lý và công bằng chút nào." Chúng ta cho rằng những
gì xảy ra trong cuộc sống phải luôn công bằng và hợp lý. Tuy nhiên, khi nghĩ
về điều nầy, bạn sẽ thấy là trên đời nầy, có người sanh ra với tất cả
những gì tốt đẹp nhất, có người thì vô cùng khổ sở và bất hạnh. Quá nhiều
bất công làm cho cuộc đời nầy thật là phi lý phải không các bạn? Tại sao
nước Mỹ không chịu giải trừ vũ khí? Tại sao người dân các nước Trung Đông
cứ luôn đánh nhau, bỏ bom và phá hoại thành phố xinh đẹp như Beirut
? Tại sao châu Phi bị nạn đói? Tại sao các nước Trung Mỹ luôn
sống trong cảnh bất công và nghèo đói? Thật là không công bằng chút
nào phải không các bạn? Đời sống quả thật là vô lý nếu nó cứ tiếp diễn như thế
và chúng ta muốn nó phải thay đổi. Tự do là cái mà chúng ta nhắm đến,
nhưng chúng ta lại bị giới hạn và kiềm chế bởi những định chế xã hội
và điều kiện vật chất của tấm thân làm người nầy.
Xuyên qua tất cả vấn đề trên, chúng ta thấy một nghịch lý bao
trùm. Đó là tự do hành động theo bản năng, dục vọng, và tham ái hình như không
mang lại tự do thật sự. Đây là điều mà tôi học được từ kinh nghiệm bản thân.
Khi tôi nghĩ là tôi đang được tự do theo đuổi những gì mình muốn thì chính
lúc ấy, tôi càng cảm thấy bấn loạn, mất phương hướng, và trở thành nô lệ của
dục vọng. Trên đời nầy, những lựa chọn, những sự vật để lựa chọn, và những
khả năng lựa chọn là vô tận. Đây là xã hội mà chúng ta gọi là "xã hội tự
do". Nhưng khi chúng ta cứ chạy theo tất cả những lựa chọn và khả năng lựa
chọn nầy, hình như chúng ta chỉ chuốc thêm rối rắm và hỗn loạn.
Trái lại, ở những xã hội có ít lựa chọn, đời sống
rất đơn giản. Thí dụ, đời sống ở các tu viện rất đơn giản vì ởđó
không có nhiều lựa chọn. Buổi sáng khi thức dậy, tôi không cần phải tự
hỏi, "Sáng nay mình sẽ mặc áo gì?" "Mình sẽ chảy tóc kiểu
nào?" Đời sống tu viện quả thật không có nhiều lựa chọn. Vì thế, nhiều
người xem cuộc sống giản đơn nầy là một cực hình vì ở đó, mọi việc
đều bị cấm đoán: bạn không thể làm việc nầy, và bạn không thể làm việc nọ.
Nhưng giới luật nhằm đơn giản hóa đời sống tu viện là để giúp bạn
phát triển đời sống tâm linh. Bạn không phải bận tâm quyết định và
lựa chọn những kinh nghiệm sống liên quan đến ngũ dục. Khiđã từ bỏ
tất cả để vào sống ở tu viện, chấp nhận nó, và không còn mong muốn những
cơ hội để thực hiện những gì mình mơ ước, đời sống của bạn dĩ nhiên
sẽ đơn giản. Nó sẽ trực tiếp, thẳng tắp và rõ ràng.
Chúng ta không thể tìm tự do trong tham ái và dục vọng mà chỉ có
thể thấy được tự do trong giáo pháp.Trong giáo pháp, đời sống không
có những lựa chọn dựa trên cơ sở yêu ghét, luyến ái và dính mắc. Và khi chúng
ta không còn bận tâm với vô số những lựa chọn -- lựa chọn về quan điểm, cơ
hội, và tư tưởng mà chúng ta thường gặp trong các xã hội phức tạp --
sự đơn giản tự nhiên sẽ đến. Chính nhờ sự đơn giản và
phương hướng đạo đức nầy mà tâm chúng ta được giải thoát. Chúng
ta có thể tiếp cận và mở rộng với cuộcđời theo cách mà chúng ta không thể nào
làm được nếu vẫn còn bị ràng buộc bởi ái dục, bởi những lựa chọn dựa trên
sự yêu ghét, và dính mắc cá nhân. Khi tâm đã mở rộng với cuộc đời,
chúng ta sẽ nhận ra rằng sự tự do của tâm không tùy thuộc vào việc chúng ta
có được tự do làm tất cả những gì chúng ta muốn.
Bất cứ sự tham ái nào xuất phát từ vô minh sẽ dẫn chúng
ta đến một hành động hay một kinh nghiệm bất thiện.Với tâm tham ái,
chúng ta luôn muốn chiếm giữ, xua đuổi, loại trừ, hay bám chặt vào một cái
gì đó -- vì đây là bản chất của tham ái. Ngay lúc mà tham
ái đã đạt được những gì nó muốn, nó sẽ bắt đầu muốn những thứ
khác. Tôi chưa bao giờ thấy một lòng tham được thỏa mãn vì công năng
của tham ái là chiếm hữu và chỉ bằng cách chiếm hữu, tham ái mới đem lại
hạnh phúc và thỏa mãn nhất thời. Bạn có thể hài lòng và toại nguyện trong một
khoảnh khắc nào đó khi đã đạt được những gì bạn muốn, nhưng rồi tham
ái lại bắt đầu làm việc, lo tìm kiếm và hướng về một cái gì khác để
chiếm hữu và tiếp tục thỏa mãn bạn. Vì thế bạn không thể nào thật sự toại
nguyện ngay cả sau khi đã có những gì bạn muốn, thậm chí sau khi có tài
sản, của cải, quyền lực, danh vọng, và tất cả những gì tốt đẹp nhất
trên đời. Thí dụ, nếu bạn làm ra được nhiều tiền thì liền ngay
lúc ấy, bạn sẽ bắt đầu lo sợ bị mất tất cả tiền bạc và tài sản. Nỗi lo sợ
bị mất mát và lòng tham muốn lợi lạc của con người là vô tận.
Ngày nào mà chúng ta còn sống với những ảo tưởng trong đó ái
dục xuất phát từ vô minh vận hành và và chi phối, thì thế giới của chúng ta sẽ
là thế giới huyễn ảo. Vì thế tham ái không bao giờ mang lại tự do cho tâm; tham
ái cho chúng ta hy vọng là sẽ có tự do trong tương lai. Nhưng nổ lực tìm tự do
qua con đường tham ái chỉ tạo thêm trói buộc và ảo tưởng.
MỞ RỘNG TÂM ĐỂ TIẾP CẬN VỚI PHÁP
Đức Phật nhấn mạnh việc nhìn xuyên thấu và thấy được những ảo
tưởng đang kiềm chế và giam hãm chúng ta bằng cách xem xét và quán sát chính
bản chất của tham ái, những đau khổ do tham ái mang lại, và sự chấm dứt của
tham ái. Khi quan sát tham ái, chúng ta thấy rằng nó không là cái gì khác hơn
là một luồng tâm thứcđang di động hay một luồng năng lượng tâm lý đang chi phối
thân và tâm chúng ta. Nó không phải là một người, hay một cái gì tuyệt đối,
thường hằng và bất biến; nó sinh rồi diệt, đến rồi đi -- đây chính là
luồng năng lượng tham ái. Nếu chúng ta không để cho luồng năng lượng tham
ái tự nó ra đi, nói khác đi, nếu chúng ta không buông bỏ nó, thì nó sẽ tạo ra
luồng tham ái thứ hai, và luồng tham ái thứ hai nầy sẽ tạo ra luồng tham ái thứ
ba, và tiến trình tham ái cứ thế mà tiếp tục nhân lên và sinh sôi nẩy
nở đến vô cùng.
Trong đạo Phật, từ "mindfulness" (tiếng Pali
là sati) hay chánh niệm có nghĩa là "quan sát, cho phép các sự
vật hiện ra trong thân và tâm, ý thức về nó, và để cho nó tự xảy diễn
trong thân và tâm." Để có chánh niệm, bạn phải cố gắng sống với thực tại,
ngoại trừ khi có cái gì cực kỳ nguy hiểm và khẩn trương trước mắt mà bản năng
sinh tồn bắt bạn phải ngừng chánh niệm và chú ý đến nó. Trong điều kiện
bình thường, bạn phải nỗ lực quan sát những gì đang xảy ra một cách khách
quan, không thành kiến và phán đoán. Chúng ta tập quan sát mà không
phán đoán, thay vì tạo ra một cái gì đó rồi biện minh hay bảo vệ
nó. Khi có chánh niệm và trí tuệ, năng lực ghi nhận và khả năng cởi mở
tiếp thu của tâm sẽ tự động phát sinh. Chúng ta sẽ nhạy cảm và tiếp
nhận được sự vận hành của các sự vật; nói tóm lại, chúng ta sẽ tiếp cận
với Pháp, thấy Pháp, và sống với Pháp.
Vì thế, "Pháp" là một từ có ý nghĩa rất bao trùm. Pháp
có nghĩa là "cách thức các sự vật thật sự tồn tại, không bị nhìn méo mó
bởi bất cứ thành kiến nào." Pháp cũng có nghĩa là "quy luật tự
nhiên." Khi quán Pháp, chúng ta không nghĩ về Pháp như một cái gì đó. Nếu
chúng ta định nghĩa Pháp là cái nầy hoặc cái nọ, thì lúc đó chúng ta
đang tìm Pháp, chứ không phải quan sát Pháp như nó đang xảy diễn, phải
không các bạn? Đó không phải là cách tiếp cận với Pháp hay chánh niệm về
Pháp. Chánh niệm là mở rộng tâm để thấy và biết được Pháp như nó đang
xảy ra -- tại đây và ngay bây giờ.
Chúng ta thường không để ý đến không gian và thời gian. Thân
chúng ta có thể ở đây mà tâm chúng ta lại ở chỗ khác. Thời gian là bây
giờ, nhưng chúng ta ít khi thật sự sống với cái bây giờ; chúng ta phí nhiều thời
gian trong đời để nhớ về quá khứ, hay mong đợi, mơ tưởng, và lo sợ về
tương lai. Chúng ta xây dựng những dựđịnh về tương lai và hồi tưởng về quá khứ,
nhưng chúng ta không bao giờ ghi nhận Pháp hay những gì đang xảy ra tại
đây và ngay bây giờ -- Pháp chính là thực tại đang xảy
diễn. Từ đó, chúng ta cứ suy nghĩ về quá khứ và tương lai, tiếp tục
bị năng lực tham ái chi phối, và hướng về một cái gì khác ở một nơi
nào đó. Nếu chúng ta quán tưởng về điều kiện sống của chúng ta
tại đây và ngay bây giờ, thì chúng ta sẽ thấy, biết và hiểuđược tại sao các sự
việc trên thế gian xảy ra như nó đang xảy ra trong hiện tại.
ƯỚC NGUYỆN CỦA TÂM
Trong xã hội hiện đại, chúng ta thấy con người tìm mọi
cách để đấu tranh cho công bằng xã hội và xóa bỏ hay ngăn chận những bất
công tàn tệ. Đây là một việc làm cao thượng và trượng nghĩa. Thế gian ca ngợi
và ngưỡng mộ những việc làm nầy. Nhưng làm như thế vẫn không đủ. Làm
như thế chẳng khác nào dọn dẹp nhà cửa cho sạch sẽ và ngăn nắp. Khi phòng
nầy vừa dọn sạch, thì phòng kia lại dơ bẩn và bề bộn. Làm như thế cũng giống
như dùng bàn chải đánh răng để chà sạch thành phố Luân Đôn
vậy. Đây là điều không thể làm được. Bạn sẽ không bao giờ hoàn
thiện được cơ cấu xã hội để bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, và
vị tha vì những cái xấu xa và bất thiện cứ lại hiện ra.
Xã hội chỉ có thể trật tự, ngăn nắp, và công bằng khi tâm của
những công dân trong xã hội ấy được trong sạch. Ngày nào mà tâm con
người còn đầy ắp những tham ái, khát vọng, ảo tưởng, và vô minh,
thì điều tối ưu mà chúng ta có thể làm được là dùng luật lệ để
bảo đảm một số tiêu chuẩn nào đó về công bằng xã hội. Nếu ai đó không
đáp ứng những đòi hỏi tiêu chuẩn nầy, họ sẽ bị luật pháp trừng trị. Đó là điều
tốt nhất chúng ta có thể làm. Chúng ta sẽ không bao giờ có được
bình đẳng hay công bằng và lòng vị tha trên thế gian, vì nhữngđức tính nầy
chỉ có thể đến từ thế giới của Tâm. Chúng không đến từ mắt, tai, mũi,
lưỡi hay thân: chỉ có ở thế giới của tâm, mọi việc mới trở nên công bình
và bình đẳng, và từ đó, xã hội sẽ có vị tha, công lý, và
bình đẳng .
Thế thì ý nghĩa thật sự của Tâm là gì? Tâm (tiếng Anh là heart)
dùng để chỉ trái tim, một bộ phận sinh học của cơ thể. Nó cũng có
nghĩa là chất liệu tình cảm của con người. Trái tim thường hàm ý về cảm thọ.
Thí dụ, khi thất vọng nặng nề, chúng ta nói "tim tôi bị vỡ (broken
heart)." Chúng ta lại có thêm từ Trí (tiếng Anh là mind).
Trí để chỉ cái gì đó ít tình cảm hơn. Trí bao gồm quá trình làm việc
bằng trí óc, trí thức, lý luận và tư duy trừu tượng; tuy nhiên, khi nói về khả
năng cảm nhận và đáp ứng với tình thương, chúng ta dùng chữ Tâm nhiều hơn
chữ Trí.
Tất cả chúng ta ai cũng muốn có tự do, bằng cách nầy hay cách
khác. Chúng ta có thể hy vọng là người nàođó sẽ đến với chúng ta, thỏa mãn tất
cả những nhu cầu và làm cho chúng ta vui sướng, như Cô bé Lọ lem mơ về vị Hoàng
tử duyên dáng của mình. Có thể chúng ta mong chờ một Đấng Cứu Thế, hay nếu
là Phật tử, chúng ta sẽ hướng về Đức Phật Di Lặc tương lai, hay nếu là
người công dân bình thường, chúng ta sẽ mongđợi một vị Thủ Tướng hay Tổng Thống
lãnh đạo và đưa đất nước đi trên con đường đúng đắn. Chúng
ta luôn mong chờ một thế lực nào đó ở bên ngoài, một ai đó chưa hề
gặp ngoài kia có thể thỏa mãn những nhu cầu của chúng ta. Trên bình diện văn
hóa, đức tin tôn giáo hay đời sống tâm linh hướng thượng sẽ đáp ứng khát vọng
tự do của con người. Vì những dục lạc của thế gian không bao giờ thật sự
thỏa mãn nhu cầu tự do của chúng ta, nên chúng ta tìm đến tôn
giáo. Tôn giáo hướng về sự thánh thiện và cao cả và chúng ta phải vươn
lênđể xứng đáng với tầm vóc của nó. Khi một cái gì đó làm bạn hưng phấn
và mẫn cảm, bạn sẽ hướng thượng thay vì sa đọa. Khi sa đọa,
chúng ta sẽ chìm đắm trong sầu não, tuyệt vọng, cảm thấy mình xuống dốc và
không còn giá trị gì cả. Chúng ta gọi hiện tượng nầy là "bị đọa địa
ngục (going to hell)." Tim chúng ta vỡ nát, tinh thần suy sụp, và
chúng ta sẽ không còn mơ ước hay muốn vươn đến cái gì đó cao hơn mình
nữa.
Sự sanh và các thức sinh khởi khi sáu căn tác động với sáu trần
luôn củng cố và duy trì cảm giác bị chia cách và cô lập giữa con người. Các
thức dựa trên các căn và trần là những gì độc lập, khác biệt, và cách biệt
làm cho chúng ta cảm thấy xa lạ với môi trường chung quanh. Ở dục giới, luôn
luôn có cảm giác bị cô lập, chia cách, căng thẳng và xung đột với cuộc
sống chung quanh. Chúng ta có thể mơ ước và vươn đến những mục tiêu
thế gian như giàu sang và danh vọng. Nhưng điều nầy vẫn không đủ. Cho
dù chúng ta đạt được một địa vị nào đó trong đời, nhưng nếu suy nghĩ
thật kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng địa vị thế gian cũng không phải là cái mà chúng
ta thật sự mong muốn. Chúng ta có khát vọng tự nhiên muốn vươn đến cái gì
cao hơn cuộc đời nầy.Khát vọng nầy là mơ ước được hòa làm một với tất
cả, đoàn tụ và thể nhập với tất cả, không còn bị chia cắt và cô lập nữa.
Trong đạo Phật, đây là khát vọng hướng về Pháp, tiếp cận với Pháp, hướng
về Chân lý. Vì thế, với mơ ước nầy, chúng ta sẽ vươn lên cao thay vì bị ràng
buộc và chìm đắm trong những đòi hỏi và ham muốn dục lạc của mình.
HÃY CHẤP NHẬN THÂN MẠNG THẾ GIAN NẦY CỦA CHÚNG TA
Thân thể con người là do tứ đại cấu tạo thành: đó là đất,
nước, lửa, và gió. Chúng ta phải sống nhờ vào thực phẩm được trồng trọt,
lớn lên, và gặt hái từ quả đất nầy. Chúng ta cần nước, sức nóng của
mặt trời, và không khí để thở. Khi chúng ta lìa bỏ cõi đời,
những yếu tố này lại trở về với lòng đất; chúng không bay lên
thiênđường. Vì thế, khi còn nương vào tấm thân nầy để sống, chúng ta
phải chấp nhận những giới hạn của nó, thay vì mong muốn thoát ra và quay lưng
chối bỏ trái đất đã nuôi dưỡng chúng ta. Chối bỏ tấm thân nầy là một ước
mơ hoang tưởng và ích kỷ. Lời tuyên bố, "Tôi không thích thế gian này nữa.
Tôi đã quá chán ngán tấm thân nầy. Tôi muốn được sống trong cảnh giới
huyền diệu nằm ngoài thế gian nầy." là tư tưởng xuất phát từ cái nhìn sai
lầm về sự hiện diện của một cái ngã độc lập, từ tình cảm ghê tởm và chán
ghét cái tự ngã cô lập đó, và khát vọng muốn được có cuộc sống tốt
đẹp hơn và vi tế hơn. Nó xuất phát từ tâm tham ái chứ không phải là một ước mơ
hướng đến một lý tưởng cao đẹp.
Khi hành thiền, một trong những bài học quan trọng là tập chấp
nhận trái đất và tấm thân mà chúng ta nương nhờ vào để
sống. Chúng ta tập quán thân rất nhiều; trong giai đoạn đầu, công phu
hành thiền chủ yếu là quán sát thân thể vật lý của chúng ta. Chúng ta
tập điều phục, an tịnh thân, tập xem trọng những nhu cầu thân thể và không
ép thân thể phải chiều theo những đòi hỏi của chúng ta. Nếu không
hiểu được sự vận hành của thân, chúng ta có thể rất tàn nhẫn, bỏ bê và coi
thường những nhu cầu của nó. Thí dụ trong lúc hành thiền và thân bịđau nhức,
chúng ta có thể ép thân ngừng hoạt động để đè nén sự đau nhức. Chúng
ta cũng có thể tìm cách đi vào trạng thái xuất thần để quên
phứt đi cơ thể. Nhưng khi cơ thể bắt đầu đau nhức, đói khát, hay
cần đi tiểu tiện, chúng ta lại ghê tởm và chán ngán nó. Làm như thế là không
công bằng và hợp lý phải không các bạn? Vừa mới đi vào một trạng thái
khinh an phỉ lạc rồi bất chợt, chúng ta lại phải đi nhà vệ sinh. Làm như
vậy thật là không hợp lý!
Nhưng khi hành thiền, mục đích của việc quán thân không phải
là để chiều chuộng hay chống đối lại cơ thể, mà chính là để thấy,
biết, và hiểu được cơ thể. Cơ thể là như thế đó; tất cả cơ thể
đều là như vậy. Chúng ta không nghĩ về cơ thể như một cái gì của riêng mình.
Cho dù nó đẹp đẽ hay xấu xí, chúng ta chỉ cần quán thân thể như là thân
thể. Chúng ta không nhìn thân thể của tôi để so sánh với thân thể của
anh: hiện tại chỉ có tấm thân vật lý nầy. Nó có những cảm thọ như thế nầy;
nó là như thế nầy; và nó vận hành như thế nầy, thế thôi.
Khi chúng ta chấp nhận thân thể như là thân thể, thì nó sẽ không
còn là vấn đề khó khăn nữa. Thân thể sẽ gây khó khăn nếu chúng ta
không chấp nhận, chối bỏ, ca tụng và chiều chuộng, hay làm điều không phải
đạo với nó. Nếu chúng ta không chấp nhận nó, cơ thể có thể sẽ đầy ắp
những khó chịu và đau khổ và chúng ta phải chịu đựng. Nhưng cơ
thể tự nó sẽ không là trở ngại khi chúng ta chấp nhận, hiểu, và biết nó. Đây
chính là điều mà tôi muốn nói khi tôi khuyên các bạn hãy chấp nhận thân mạng
thế gian nầy, với tất cả những gì đến với nó: đó là quá trình già, bệnh, và
chết. Đã sanh ra thì phải lớn lên, già rồi chết. Mọi việc đều phải xảy ra
như thế.Khi chúng ta thấy được sinh, già, bệnh, chết như là sự vận hành
của Pháp, thì quá trình sanh tử không còn là vấn đề nữa. Nó chỉ là
Pháp thế thôi.
HƯỚNG ĐẾN SỰ THÁNH THIỆN
Thân thể tự nó không phải là cứu cánh. Cho dù đẹp đẽ hay xấu
xa, thân thể nầy thật sự không phải là chúng ta, vì thế chúng ta khó mà hài
lòng và toại nguyện với nó. Vì thân thể không phải là chúng ta, nên chúng ta sẽ
không bao giờ thật sự cảm thấy nó hay trái đất nầy là mái ấm thoải mái hay
là nơi nương tựa đáng tin cậy của mình. Trong chúng ta, luôn có ước vọng
hướng về một cái gì đó cao thượng, vi tế và thanh thoát hơn.
Khi quan sát cuộc sống trên trái đất nầy, chúng ta thấy những
gì? Nếu nói về thú vật, chúng ta sẽ thấy thú vật chỉ biết lo sống còn: chúng
phải lớn, mạnh, khôn ngoan, gian xảo, hay dựa vào số đông để tồn
tại. Thú vật không thể thỏa thuận với nhau về bất cứ điều gì vì thế
không thể nói chuyện luật lệ với thú vật . Thí dụ chúng không thể đồng ý
là sẽ không giết hại lẫn nhau. Ngay cả con người còn chưa được thỏa thuận
đó, huống hồ là loài thú phải không các bạn? Con người là những sinh vật
rất độc ác, sẵn sàng giết hại lẫn nhau, và tàn sát các sinh vật khác,
nhưng con người vẫn có thể vươn lên cao hơn trình độ loài thú. Nếu chỉ là
thú vật thì con người không thể nghĩ được điều gì tốt đẹp cả. Sẽ
chỉ có luật rừng xanh và sự tồn tại của kẻ nào mạnh nhất; con người sẽ không
thể hình dung được cái gì cao hơn cảnh giới của loài thú. Nhưng con người
có thể vươn lênđược. Con người có thể nghĩ đến công lý và
bình đẳng; tâm trí con người có thể nghĩ đến những khả năng
nầy.Và đó chính là ước vọng tâm linh hướng về một cảnh giới cao thượng
thay vì chỉ biết tồn tại và sống còn.
Một tâm hồn sa đọa và hạ tiện sẽ lý luận rằng con người cơ
bản chỉ là loài thú; sẽ chỉ có sự tồn tại của kẻ mạnh nhất, đó là quy luật
tự nhiên. Lý luận nầy cho rằng con người không hơn con vật và chúng ta phải
chấp nhận thực tế nầy. Chúng ta phải cố hết sức tranh sống và giành giật cho
chính mình để tồn tại. Một tâm hồn hạ tiện và sa đọa sẽ biện
minh rằng, "Tôi đã giành được phần của tôi. Nếu bạn ngu ngốc và
yếu ớt, không thể giành phần cho bạn, thì phải ráng mà sống với số phận hẩm hiu
của bạn; đây là điều đáng buồn nhưng cuộc đời là như thế đó." Đây là cách
suy nghĩ bi quan dựa vào thuyết định mệnh của một tâm hồn thấp hèn. Nhưng
từ tận đáy lòng, tôi biết rằng tôi muốn vươn lên và hướng về một cái gì
cao thượng hơn là cái nhìn bi quan trên, và tôi thấy chung quanh tôi cũng có
những người đang suy nghĩ theo chiều hướng ấy. Con người là chúng
sanh có thể hướng về sự thánh thiện.
Chúng ta nên hiểu chữ hai chữ thánh thiện như thế nào? Đạo Phật
không nói nhiều về sự "thánh thiện" hay cảnh giới "thánh
thiện." Nhiều người tìm đến đạo Phật sau khi đã thất vọng ê chề với
những gì thiêng liêng và thánh thiện mà người đời thường ca ngợi. Tất cả
những gì mà người đời nói về Thượng Đế và những gì xảy ra sau khi
chết đã làm họ chán ngấy. Họ hoàn toàn mất tin tưởng vào sự thiêng liêng
và thánh thiện. Họ muốn tìm một cái gì đó thực tế hơn. Họ không muốn
tìm một cái gì đó sau khi chết hay trong kiếp sau, vì đó là những gì
mà họ không thể thấy, biết và sờ mó được. Nhưng nếu quả thật không có
sự thiêng liêng và thánh thiện, thì làm sao con người có thể nghĩ đến hay
hình dung ra được khái niệm nầy. Con người chỉ có thể suy nghĩ về sự
thánh thiện khi nào họ đã thật sự biết được và kinh nghiệm sự thánh
thiện, dù chỉ là trong chớp mắt hay trong một phút giây ngắn ngủi nào đó.
SỐNG THÁNH THIỆN VỚI TÂM TỪ, TÂM BI, TÂM HỶ, VÀ TÂM XẢ
Tâm từ của một bà mẹ đối với đứa con thân yêu là biểu hiện
của sự thiêng liêng và thánh thiện phải không các bạn? Đó là một kinh nghiệm
thiêng liêng và thánh thiện. Đối với tôi, quên mình để hiến dâng chỉ gì
một người nào đó cần đến, hay nói khác đi, hy sinh những đặc ân và tiện
nghi cá nhân để phục vụ người khác là một biểu hiện thánh thiện. Khi
chúng ta thật sự ứng xử với cuộc đời một cách công bình và chân thật, khi
chúng ta không còn thành kiến và thiên vị, khi có sự hoan hỷ, quân bình, và xả
bỏ trong tâm, khi tâm thanh tịnh không bị những phiền não chi phối, thì chúng
ta sẽ tiếp cận với sự thiêng liêng và thánh thiện.
Thay vì nói chúng tôi hướng về sự thiêng liêng và thánh thiện,
người Phật tử nói, "Chúng tôi muốn tiến đến giải thoát và Niết
bàn." Thế thì Niết bàn là gì? Niết Bàn là trạng thái trong đó chúng
ta không còn bám víu, chấp chặt và quyến luyến vào bất cứ điều gì. Khi ở
trong trạng thái đó, chúng ta sẽ là một người vị tha đầy lòng từ, bi,
hỷ, xả. Chúng ta sẽ tiếp cận với sự cao thượng; chúng ta sẽ tiếp cận với sự
thánh thiện; và chúng ta sẽ thể nghiệm được sự thoải mái, bình yên, và
khinh an thật sự.
Bạn chờ đợi gì ở một thánh nhân? Thí dụ, khi
nghĩ đến Chúa Jesus, có lẽ bạn sẽ nghĩ về lòng bi mẫn bao la của Ngài.
Do đó, nếu có một thánh nhân thì tâm bi mẫn phải là một trong
những đức tính của vị đó. Khi quán tâm, tôi thấy là khi tham ái vắng
bóng thì bi mẫn sẽ xuất hiện. Tôi không cố ý tạo ra tâm bi mẫn; nó đến một
cách tự nhiên. Khi không có tâm tham và ích kỷ luôn muốn chiếm hữu một cái
gì đó thì tâm bi mẫn trước những khổđau và hỗn loạn của chúng sanh sẽ xuất
hiện. Tâm bi mẫn nầy không xuất phát từ một khái niệm đạo đức cho đây là
việc cần phải làm; không phải thế. Tâm bi mẫn đến từ sự hiểu biết về sự
vận hành của các pháp và về những đau khổ xuất phát từ vô minh đang tồn
tại trên thế gian nầy.
Trái lại, lòng thương hại bắt nguồn từ nỗi lo sợ cho chính mình.
Khi có ai đó mắc bịnh ung thư và chúng ta nghĩ, "Ôi, tội nghiệp cho
người ấy quá; tôi mừng là đã không mắc phải bịnh ấy. Hy vọng là tôi sẽ
không bao giờ bị ung thư cả." Khi nói ra điều nầy, chúng ta đã
áp đặt tư tưởng của mình trên người khác. Chúng ta cho bị ung thư là bất
hạnh và chúng ta may mắn vì đã không mắc bịnh ung thư. Đó không phải là
tâm bi mẫn. Tâm bi mẫn là tâm thật sự mở rộng để tiếp cận với sự đau khổ
của người khác, không phải là để mong cầu lợi lạc, mà là vì ước nguyện sẵn
sàng kiên nhẫn và chia sẻ nỗi khổ mà người khác đang chịu đựng. Chúng
ta sẵn sàng chia sẻ và chịu đựng những bất hạnh, đau buồn, và khổ
sở đang diễn ra chung quanh, mà không tìm cách trốn tránh, buộc tội
và đổ lỗi cho ai cả. Đó chính là tâm bi mẫn; và tâm bi mẫn là một
phẩm chất của sự thánh thiện.
Đối với tôi, tâm hoan hỷ xuất hiện khi bạn tiếp xúc được với những
điều Chân Thiện Mỹ trong cuộc sống. Đó là một tình cảm rất tích cực và không
xuất phát từ tham ái vì hoan hỷ và tham ái đối nghịch và loại trừ lẫn nhau. Có
tham ái thì không có hoan hỷ và ngược lại. Tâm hoan hỷ là cái gì tự phát liên
quan đến cái đẹp, cái thiện, và cái chân thật hiện diện trong con người và
trong tất cả sự vật tồn tại trên đời. Có hoan hỷ thì ganh tỵ và ghen
ghét hoàn toàn vắng mặt vì những tâm sở bất thiện nầy xuất phát từ lòng tham
muốn cá nhân. Nếu chúng ta vẫn còn mang cái nhìn chấp ngã, thì khi thấy một
ai đó thật sự có sắc đẹp và đạo đức hoàn hảo, chúng ta sẽ khởi tâm
ganh tỵ và nghĩ, "À, ông ta tốt và giỏi hơn tôi." Rồi chúng ta lại
tiếp tục suy nghĩ, "Ồ, ông ta có thể giỏi, nhưng ông ta cũng có thể…"
Chúng ta đang tìm cách hạ thấp và dìm người đó xuống, phải không các
bạn? Với tham ái, chúng ta chỉ lo chiếm hữu những điều chân thiện mỹ
và chỉ khi nào chiếm hữu được, chúng ta mới có thể thưởng ngoạn
chúng. Đó không phải là tâm hoan hỷ. Đó chính là tham ái. Tâm hoan hỷ chân
thật cũng là một phẩm chất của sự thánh thiện.
Tâm quân bình và an tịnh chỉ xuất hiện khi chúng ta lắng dịu và
mát mẻ. Tâm quân bình và xả bỏ có thể tiếp cận với cuộc sống và sự vận hành của
các pháp mà không bị dính mắc. Lúc đó, tâm sẽ quân bình, thấy biết, và
chiếu sáng rạng rỡ. Đó cũng là phẩm chất của sự thánh thiện.
Tự do là Niết bàn, là sự chứng ngộ được trạng thái xả bỏ tất
cả, lúc đó chúng ta sẽ thật sự sống với tâm từ, bi, hỷ, và xả. Chúng ta có thể
bàn về tự do dựa trên nguyên tắc công lý và bình đẳng, nhưng nội dung
chính của lý tưởng tự do mà tôi muốn nói đến ở đây là ước vọng vươn lên
của con người, hướng về sự thánh thiện và hòa đồng với Đại thể.
Thế thì tự do của tâm là gì? Theo tôi, đó là sự tự do lựa
chọn hoặc đi vào con đường sa đọa hoặc hướng đến sự thiêng liêng và
thánh thiện. Bạn sẽ chọn hướng nào? Trong bất cứ giây phút nào của cuộc sống,
bạn cũng có thể làm sự lựa chọn nầy. Hoặc là bạn sẽ tiếp tục than vãn về số
phận của mình, suy nghĩ về tất cả những gì bạn không yêu thích và tất cả những
gì sai trái trên thế gian nầy, hoặc là bạn sẽ chánh niệm và quán tưởng về Pháp,
cố gắng hiểu nó, và nuôi dưỡng ý nguyện hướng về con đường thánh thiện
trong tâm mình.
*
* Câu hỏi: Khi nói đến tự do, tôi thường
nghĩ đến cái gì đó rất hồn nhiên và tự phát. Nếu phải luôn luôn chánh
niệm, quán sát, và ghi nhận tất cả trước khi hành động, thì điều đó
có làm mất đi sự hồn nhiên và tự phát trong chúng ta hay không?
Trả lời: Không, nhưng bạn vừa nêu lên một
vấn đề thuộc về ngôn từ. Khi bạn nói "quán sát và ghi
nhận",điều này hình như hàm ý là có một ai đó đang bận bịu làm một
cái gì đó. Tuy nhiên, chánh niệm không có nghĩa là bạn sẽ trở thành
một người nào đó bận bịu với việc quán sát đến nỗi bạn không thể ứng xử
với hoàn cảnh chung quanh. Sự hồn nhiên và tự phát phải đến từ tâm tín
thành, phải không các bạn? Bạn không thể dựa vào một khái niệm hay một tư tưởng
nào đó về cuộc đời rồi cố gắng trở nên hồn nhiên và tự phát.
Để trở nên tự phát và hồn nhiên, bạn phải có đức tin, và trong đạo
Phật, nền tảng của đức tin là Tam Bảo. Khiđã tin tưởng vững chắc nơi Tam Bảo,
chúng ta không cần phải nghi ngờ hay lo âu về cuộc đời. Sự tự phát và
hồn nhiên xuất phát từ niềm tin đó, và niềm tin đó không dựa trên
nhân sinh quan chấp ngã. Chỉ thuần quán sát hay chánh niệm sẽ cho giúp chúng ta
ứng xử với cuộc đời một cách hồn nhiên, vì chúng ta đặt niềm tin nơi
Phật-Pháp-Tăng. Chúng ta trở nên hồn nhiên, vì chúng ta không còn ảo tưởng
về cái tôi cần phải được bảo vệ. Toàn bộ tư tưởng sai lầm cho rằng
"Tôi là một con người, tôi phải luôn luôn cảnh giác để bảo vệ tôi
khỏi những thế lực xấu ác, nếu không tôi sẽ bị chúng áp đảo và chế ngự" sẽ
hoàn toàn tan biến. Và sẽ chỉ có sự thấy, hiểu biết, và tâm thanh tịnh mà chúng
ta có thể tin tưởng và nương tựa. Những gì còn lại của cuộc sống sẽ tự vận hành
theo quy luật của nó và chúng ta không cần phải can thiệp vào.
-------------------------------------
Thiền
Giữa Đời Thường: Phương pháp Thiền Phật giáo nguyên thủy
(Thiền Vipassana)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét