Khi quán niệm hơi thở (anapanasati), bạn trụ tâm trên hơi
thở. Nếu muốn, mỗi lần bạn có thể tập như thế khoảng mười phút. Khi hành thiền
lâu hơn mười phút, bạn có thể quán hơi thở trong mười hay mười lăm phút đầu,
cho đến khi tâm định và lắng xuống. Nếu tâm vẫn chưa an, bạn hãy tìm cách xem
lại trong phương pháp thực hành có gì trục trặc. Bạn phải nhận ra được
trạng thái tâm của mình lúc ấy; bạn sẽ thấy rằng tâm có thể dễ định hơn
vào một thời điểm nào đó trong ngày. Nếu tâm khó định, có thể là
vì bạn đang mệt mỏi, hay thân thể không được khỏe. Sau bửa ăn,
tâm khó định vì năng lượng của cơ thể được dành ưu tiên cho việc tiêu hóa
thức ăn.
Sau khi tập trung đi sâu vào việc quán hơi thở khoảng mười
phút, bạn hãy buông hơi thở ra, không tập trung vào nó nữa. Thay vào đó,
hãy quán sát những gì xảy ra, những gì đến rồi đi trong tâm; Hãy ghi
nhận những tư tưởng và tình cảm sinh khởi. Ngay chính giây phút mà bạn biết là
bạn đang suy nghĩ hay thấy là bạn đang bị chìm đắm trong
suy nghĩ, đó chính là giây phút mà bạn đang chánh niệm. Nhưng
ngay sau đó, bạn bắt đầu phán đoán và đánh giá sự thấy và biết của
mình. Nếu lúc ấy, bạn bắt đầu cảm thấy tội lỗi hay có phản ứng chống lại
với việc bị chìm đắm trong suy nghĩ, thì đó là lúc mà bạn đang
lại tiếp tục tiến trình suy nghĩ của mình. Hay nếu bạn cố gắng tìm hiểu tại sao
mình lại miên man suy nghĩ, đó chính là lúc mà bạn đang phân tích tâm
của bạn. Vì thế hãy tiếp tục buông bỏ những suy nghĩ của mình và chỉ thuần
quán sát mà thôi.
Lúc đầu chúng ta không thể chánh niệm liên tục được
vì chúng ta có thói quen suy nghĩ hay đi lang thang từ tư tưởng nầy đến tư
tưởng khác. Vì thế, chúng ta phải tập chánh niệm trong từng chập hay từng
sát na. Khi thấy là mình đang bị chìm đắm trong suy nghĩ, ngay lúc đó
bạn hãy trở về chánh niệm, để thấy được quá trình sinh và diệt của những
tư tưởng và tình cảm của mình.
Thiền Minh Sát (tiếng Pali là Vipassana) có nghĩa là
thấy một cách rõ ràng và biết rằng tất cả những gì đến sẽ ra đi và những
gì sinh ra đều diệt tận. Đây là phương pháp hành thiền mà Đức Phật đã
tìm ra và chỉ dạy lại cho chúng ta, và nếu thực hành theo cách đó, chúng ta có
thể hiểu một cách rõ ràng những điều kiện xảy ra trong tâm, thấy và biết rằng
chúng không ngừng thay đổi, chúng không phải là những tính chất của một cá thể,
hay một cái ngã biệt lập. Những chúng sinh chưa giác ngộ không thể thấy như
vậy. Họ xem tất cả những tư tưởng, ký ức, tình cảm, nhận thức, khái niệm, và ý
thức về cơ thể là thể hiện của một cái ngã biệt lập. Nhưng những Phật tử như
chúng tôi xem tất cả những gì xảy ra trong tâm đơn thuần chỉ là những điều
kiện và những điều kiện nầy đến rồi đi, sinh rồi diệt. Nói
khác đi, khi hành thiền minh sát, chúng ta chỉ làm một việc rất đơn giản,
đó là thấy và biết tất cả những điều kiện sinh và diệt trong thân và tâm.
QUÁ TRÌNH THANH LỌC TÂM
Phần lớn những chúng sanh mê lầm và vô tâm thường đè nén
và đẩy lùi hoặc xoá bỏ nhiều điều trong ý thức của họ. Chúng ta
ức chế tất cả và chỉ chấp nhận một số điều kiện nào đó trong tâm
mình. Đây là một thói quen được xã hội huân tập: Chúng ta chỉ cho phép hiện
diện và hoạt động trong ý thức của mình những gì mà xã hội chấp nhận. Vì
xã hội bảo chúng ta phải suy nghĩ với lý trí và chỉ nên có những tình cảm mà
mọi người chấp nhận, nên chúng ta đẩy lùi và dấu nhẹm trong tâm những tình
cảm tiêu cực như thù hận, xấu xa, điên rồ, ngu xuẩn hay bần tiện. Nhưng
những tình cảm bị đè nén nầy sẽ không biến mất; chúng chỉ nằm yên
ở đó.Chúng ta không thể triệt tiêu tư tưởng và tình cảm bằng cách đè
nén chúng; Hành động đè nén thật ra chỉ là thái độ không chú ý đến mà
thôi. Nhưng cuối cùng, những gì bị đè nén cũng sẽ trồi lên -- và đôi
khi lại trồi lên trong những hoàn cảnh làm cho chúng ta vô cùng bối rối và xấu
hổ.
Trong khi hành thiền, chúng ta để cho những gì bị đè nén
từ lâu trồi lên và hiện ra trong tâm, cho dù chúng có vô lý và đáng sợ đến
đâu. Khi chúng xuất hiện lên trong tâm, chúng ta hãy buông bỏ, tự khắc
chúng sẽ biến mất. Đây chính là quá trình trong sạch hay thanh lọc tâm. Nó
giống như tiến trình của việc chữa bịnh bằng cách rửa ruột vậy. Những gì tuôn
ra từ ruột sẽ rất xấu xa và hôi thối, nhưng khi đã ra khỏi ruột rồi, bệnh
nhân sẽ cảm thấy khỏe hơn nhiều.
Nếu sống ở đời mà không có trí tuệ, chúng ta sẽ luôn tìm cách
mưu toan, vận động, lôi kéo, điều khiển và kiểm soát mọi người, thậm chí
ngay cả chính bản thân của mình, để bòn mót và chắt lọc giữ lấy những gì
mình thích, và chối bỏ những gì mình không thích. Và rồi, khi cuộc đời
không cho phép chúng ta điều khiển và kiểm soát mọi việc theo ý muốn của mình,
chúng ta sẽ rơi vào một cuộc khủng hoảng, và tất cả những gì mà chúng ta che đậy
và dấu diếm từ trước đến nay sẽ tự phơi bày hay bị lột trần -- đó là biến
cố tâm lý mà chúng ta gọi là sự khủng hoảng tinh thần hay khủng hoảng thần
kinh. Tuy nhiên, nếu hành thiền, bạn sẽ vẫn trải qua những cuộc khủng hoảng
tinh thần nhưng đó là những cuộc khủng hoảng mà bạn vẫn có khả năng điều
khiển và làm chủ được mình. Bạn sẽ nhận ra rằng tất cả những tư tưởng và
tình cảm bất thiện chỉ là những điều kiện của tâm, chúng đến rồi đi và
không có tự ngã. Bạn có thể tự cởi trói cho mình bằng cách buông bỏ thay vì tìm
cách kiểm soát hoặc đè nén chúng. Và qua việc làm đó, bạn khai mở và
giải phóng tâm thức của mình.
Để thanh lọc tâm, chúng ta phải để cho những tư tưởng và tình cảm
bị đè nén và ức chế từ lâu được trồi lên và hiện ra trong tâm một cách có ý
thức. Tuy nhiên, người đời lại thường cho ý thức là cái gì thuộc về riêng
mình, vì thế nên khi có sự bấn loạn hoặc phiền não xảy ra trong tâm, chúng ta
thường nghĩ , "Tôi là một người đầy rối loạn và khổ sở." Nhưng
khi hành thiền, chúng ta biết được rằng ý thức không phải là tự ngã, nó
không phải là một người hay một cá nhân nào đó. Ý thức chỉ là
một điều kiện của thế giới tự nhiên. Khi quán sát bản chất thay đổi
không ngừng của ý thức, bạn sẽ biết rằng nó không phải là cái ngã, và sự thấy
biết nầy chính là công cụ hay cách thức giúp bạn tháo gở và giải phóng tất cả
những gì bị ức chế và đè nén trong tâm. Nó sẽ giúp những tư tưởng và tình
cảm tiêu cực và bất thiện mà bạn chống ghét và đè nén xuất hiện rồi vĩnh
viễn biến mất.
Bất cứ cái gì cũng có thể hiện lên trong ý thức. Nó có
thể đẹp hay ghê tởm, thiện hay ác, hợp lý hay điên rồ. Nhưng trong
khi hành thiền, những tính chất nầy không quan trọng. Bạn chỉ cần biết là ý
thức đang thay đổi và biết là nó không có cái ngã biệt lập -- nó là vô
ngã. Khi bạn hiểu và thấy được điều nầy đầy đủ và rõ ràng, bạn có thể dùng
ý thức để giải phóng, buông xả, mở trói, thay vì cố ý tìm cách chọn lọc
rồi dấu nhẹm vào tâm thức những tình cảm và tư tưởng mà bạn thích hoặc không
thích.
Trong thiền minh sát, chúng ta không lựa chọn gì hết. Chúng
ta để cho tất cả -- ngay cả những gì tầm thường và vô giá trị -- hiện
ra trong tâm, rồi buông bỏ nó. Chúng ta thấy và biết những điều kiện nầy
đơn thuần như chỉ là những điều kiện. Và vì thế, tự bản chất, thiền
minh sát là một việc làm đầy bi mẫn. Chúng ta không tìm cách chiếm
hữu và chấp thủ vào mỗi sự vật như thể nó là một thực thể có thật, là một con
người có thật hay là một cái gì "thuộc về chúng ta". Thay
vào đó, chúng ta chỉ thấy và biết mỗi sự vật như là một điều kiện sinh
rồi diệt. Ngay cả nếu có những tư tưởng hay cái nhìn điên loạn, chúng
ta vẫn có thể để cho chúng hiện lên trong tâm rồi quán sát thay vì đè
nén hay chạy theo sự sai khiến của chúng. Ức chế hay mê lầm chạy theo những tư
tưởng và tình cảm là hai thái cực; Trung Đạo theo như lời Đức Phật dạy là
sự thấy biết thuần túy những điều kiện như là những điều kiện.
Cho phép mọi sự vật hiện ra có nghĩa là để cho những tư tưởng
mà bạn không thích hay những nỗi lo âu sợ hãi hiện lên trong tâm. Để làm được
việc này, bạn phải thành tâm nghĩ về những tư tưởng nầy. Vì thế, hãy suy nghĩ
một cách có ý thức về những điều mà bạn đã giấu giếm một cách bí mật
và hy vọng là người đời không một ai sẽ biết về chúng, về những gì mà bạn
sợ sệt và không dám nghĩ đến. Những tình cảm bị ức chế và đè nén
nầy chính là những động lực đã bí mật điều khiển cuộc đời bạn, vì thế bạn
phải chủ tâm làm cho chúng hiện lên trong tâm để có thể nhận diện được
chúng. Nhưng khi chúng hiện lên rồi, bạn phải lắng nghe rồi buông xả thay vì
bám vào chúng và cho chúng là một cái gì đó đặc biệt khác thường. Hãy
xem chúng chỉ là những điều kiện đến rồi đi trong tâm.
HÃY LÀ NHÂN CHỨNG CỦA NHỮNG ĐIỀU KIỆN SINH KHỞI TRONG TÂM
Thế giới của ngũ dục là thế giới duyên sinh hay thế giới điều
kiện. Thế giới nầy còn có tên là thế giới hữu vi. Bản chất của nó là bất
toại nguyện, bởi vì nó có sự bắt đầu -- và tất cả những gì có sự
bắt đầu đều phải có sự chấm dứt. Nếu một cái gì đó được sinh ra,
chắc chắn nó sẽ hoại diệt. Vì thế, nếu bạn đi tìm cái ngã thật sự,
hay một linh hồn trường cửu trong thế giới hữu vi nầy, chắc chắn bạn sẽ tuyệt
vọng và đi đến chỗ bế tắc. Đây không phải là một lý thuyết về một
linh hồn trường cữu mà bạn phải tin vì một người nào đó bảo bạn phải tin;
trái lại, nó là cái mà bạn có thể trực tiếp thấy, biết và tự mình kiểm nghiệm.
Chúng ta hành thiền bằng cách quán sát các loại thức được thiết lập qua sự
tiếp xúc của sáu căn và sáu trần để tự chúng ta có thể kiểm nghiệm xem lý
thuyết trên quả thật là đúng hay không.
Bạn có thể quán sát bất cứ điều gì có thể nhận
thức được, qua sự tiếp xúc của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý. Tất cả
những gì bạn nhận thức được đều chỉ là những điều kiện hay duyên --
những tư tưởng cao siêu, những ham muốn thấp hèn, hay bất cứ tình cảm chủ quan
nào của bạn. Trong khi hành thiền, chúng ta chỉ làm nhân chứng quán sát
những điều kiện sinh khởi trong thân và tâm; chúng ta trở thành sự thấy và
sự biết về nhữngđiều kiện trong thân và tâm. Chúng ta nhận biết rằng
những điều kiện nầy đang thay đổi, chúng là bất toại nguyện, và chúng
không có cái tự ngã biệt lập. "Người đang thấy và biết đó là
ai?" Khi hành thiền, bạn sẽ ghi nhận là khi có sự tức giận xuất hiện trong
tâm, bạn có thể biết là đang có sự tức giận trong tâm. Nếu sự tức
giận là bản chất thật sự của bạn thì bạn không thể nào quán sát được
nó -- lúc đó bạn chính là cơn giận hay cơn giận và bạn trở thành là
một. Nhưng cơn giận đến rồi đi và nó là một điều kiện luôn thay đổi;
rõ ràng nó không phải là bạn.
Có thể hiện nay bạn chỉ hiểu một cách lý thuyết và có một ít tuệ
giác để hiểu được điều nầy, nhưng nếu quả thật muốn thoát ly sinh tử, bạn
phải chịu đựng và quán sát những điều kiện dường như không thể nào
chịuđựng được của tâm thức. Bạn sẽ dùng trí tuệ để quan sát sự sinh
và diệt của các điều kiện trong thân và tâm, xem xét chúng thật kỹ để
qua sự thấy và biết về chúng, bạn có thể để cho chúng tự ra đi.
HÃY CAN ĐẢM XEM XÉT SỰ THẬT
Trong khi hành thiền, chúng ta phải có can đảm để cho những
lo âu sợ hãi và lòng sân hận trồi lên và hiện ra trong tâm. Những điều mà
chúng ta không thích -- chẳng hạn như sự nhàm chán, ngu xuẩn, buông lung và
hoài nghi -- là những điều mà chúng ta thường đẩy sang một bên
hoặc đè nén và nhận chìm sâu xuống tận đáy của tâm thức. Chúng
ta không muốn bị phiền nhiễu bởi những gì tầm thường, điên loạn, và ngu
muội; chúng ta muốn hướng sự chú ý về những gì quan trọng và
tốt đẹp. Chúng ta không muốn biết rằng chúng ta đang có những tư
tưởng rồ dại và ngu xuẩn.
Lòng sân hận là cái mà chúng ta thường ức chế; chúng ta không muốn
nghĩ đến nó. Điều nầy quả thật là đúng vì xã hội dạy chúng ta chỉ
được thương yêu chứ không được thù ghét con người. Chúng ta nên chỉ yêu
cha mẹ chúng ta và không bao giờ được thù ghét con cái của mình. Nhưng
chúng ta không thể nào mãi mãi yêu một cái gì đó; tình thương là
một điều kiện luôn thay đổi, tâm sân hận cũng thế.
Trong khi hành thiền, chúng ta có thể để sự sân hận hiện ra
trong tâm vì về bản chất, đây là một hành động
thiện. Mục đích của nó là thanh lọc tâm, chứ không phải hãm hại người
khác. Vì thế, hãy tin tưởng ở động cơ tốt đẹp của việc làm nầy. Đừng sợ
hãi khi tâm sân hận được cho phép xuất hiện nhằm mục đích thanh lọc tâm vì lúc
đó bạn không hướng sự sân hận về một người nào đó. Trong khi hành thiền, ước
nguyện của bạn là thanh lọc tâm, và bạn phải tin tưởng vào ước nguyện nầy. Cho
dù bạn có mong được giác ngộ hay không, đó là một chuyện khác. Nhưng hãy
tin tưởng vào nguyện vọng hướng đến giải thoát và Niết Bàn của bạn.
Khi bạn thấy và biết được sự lo âu sợ hãi từ lâu bị chôn vùi
trong tâm, nó sẽ không làm bạn sợ hãi nữa. Chỉ khi nào bạn vô tâm tìm cách
chống lại nó, nó mới có sức mạnh chế ngự bạn. Khi bạn nhận chân rằng sự lo sợ
chỉ là một điều kiện đi qua tâm, nó giống như một con rồng. Mới thoạt
nhìn, hình như nó có sức mạnh hãm hại bạn, nhưng khi bạn thật sự đối diện
với nó, bất thình lình nó sẽ thu mình lại và không còn đe dọa
nữa. Sức mạnh của nó hoàn toàn tùy thuộc vào sự mê lầm của bạn, tùy thuộc
vào việc bạn có cho là nó thật sự có sức mạnh hung hãn hay không. Nếu bạn thét
lên, "Ối trời ơi!" và cao bay xa chạy bất cứ lúc nào có một hình ảnh
ghê sợ hiện lên trong tâm, hình ảnh đó sẽ chế ngự bạn suốt đời. Nhưng
nếu bạn ý thức để cho những điều lo sợ hiện lên trong tâm, thì nó sẽ không
còn quyền năng chế ngự bạn. Nó chỉ chế ngự bạn khi bạn cho phép nó làm
việc đó bằng cách phản ứng lại nó.
Chính vì thế, chúng ta xem tâm như một tấm gương: nó phản ảnh tất
cả mọi vật và sự việc. Nhưng những hình ảnh được phản chiếu trong gương
không phải là tấm gương. Những gì xấu xa nhất có thể hiện lên trong tấm gương
nhưng nó vẫn không làm hư hại tấm gương. Có thể những hình ảnh trong gương
không mấy gì đẹp đẽ để nhìn ngắm, nhưng nó chỉ là phản ảnh. Không chóng
thì chầy, nó sẽ ra đi, và rồi mọi việc sẽ bình thường trở lại. Chính vì
thế mà chúng ta phải có khả năng chịu đựng để nhìn thấy những hình ảnh xấu xa
gớm ghiếc đi qua tâm. Chúng ta phải hiểu chúng chỉ là những phản ảnh
trong tâm, chứ không phải là những vấn đề cá nhân của chúng ta, và càng
không phải là nhân cách của chúng ta. Chúng chỉ là những điều kiện được
tạo tác và sinh khởi, giống như cái thế gian mà chúng ta đang sống, thế
thôi.
QUÁN TƯỞNG NHỮNG HÌNH ẢNH TỪ BÊN NGOÀI
Nhờ sáu giác quan mà bạn thể nghiệm được những gì đang
xảy ra chung quanh và những kinh nghiệm nầy sẽđược phản ảnh qua tâm. Nếu
bạn đến một thành phố lớn, tất cả những bảng quảng cáo ở đó sẽ lôi
cuốn và kích thích giác quan của bạn. Xã hội của chúng ta vận hành theo nguyên
tắc của tham ái và dục vọng. Chúng ta không thể không tham muốn và thèm khát vì
những hình ảnh kích thích tham ái luôn luôn có mặt trước tấm gương
"tâm" của chúng ta. Phần lớn sản phẩm con người tạo ra là để ca
ngợi và chiêm ngưỡng cái ngã của họ;đa phần sản phẩm con người làm ra không làm
thân và tâm chúng ta lắng dịu. Chúng thường làm chúng ta bị kích động, sôi
nổi, nhàm chán hoặc buồn bã và tuyệt vọng. Ít người tạo ra những sản
phẩm đẹp đem lại sự an lạc và hòa hợp cho nhân loại.
Nhưng thôn quê và các vùng rừng núi với hoa cỏ và ruộng đồng
thêng thang, trời xanh bao la, suối nguồn róc rách, và thác ghềnh hùng vĩ
thường không kích thích ái dục trong con người; Chúng mang lại sự tĩnh lặng và
lắng dịu cho tâm và giác quan chúng ta. Được về miền quê sau nhiều tháng ở
thành thị quả thật như trút đi gánh nặng, vì lúc đó giác quan chúng ta có thể
nương tựa và an trú giữa lòng thiên nhiên hiền hòa thay vì bám vào những vật
luôn kích thích sự tham đắm của cái ngã. Vì thế trong cuộc sống, bạn
nên để ý đến những gì tiếp xúc với giác quan của bạn. Đừng vội lên án buộc
tội bản thân cho tất cả những gì ô nhiễm sinh khởi trong tâm, và đừng làm phức
tạp thêm những khó khăn cá nhân vì bản chất của thế gian là như thế đó.
Bất cứ cái gì cũng có thể sinh khởi trong tâm, nhưng cho dù
chúng đến từ bên ngoài hay bên trong chúng ta,điều này không quan trọng --
tất cả đều vô thường, bất toại nguyện, và không có tự ngã. Khi bạn sợ
hãi, đó là kinh nghiệm có thật của bạn. Nếu bạn gặp một siêu nhân từ ngoại
tầng không gian hay thấy được linh hồn của người mẹ quá cố, tất cả những
cảm nhận nầy đều rất thật, thật như những cái bình thường mà tất cả chúng tađều
có thể thể nghiệm, như ngửi hương thơm của một đóa hoa hay ngắm nhìn tôn
tượng Đức Phật. Cho dù đó là kinh nghiệm gì đi nữa, cho dù
những gì sinh khởi trong tâm là hoang tưởng, thô thiển hay trần tục, nó vẫn chỉ
là một điều kiện sinh khởi trong tâm mà thôi.
GIÃ TỪ NHỮNG ĐIỀU KIỆN GÂY ĐAU KHỔ KHÓ CHỊU
Thỉnh thoảng, khi bạn quán sát và mở rộng tâm thức, tất cả những
gì bị đè nén trong tâm có thể ào ạt trào lên. Trong năm đầu tiên tu tập ở
miền đông bắc Thái lan, tôi đã trải qua những trận thanh lọc tâm khá nặng
nề khi tôi cho tất cả những gì chứa chất trong tôi từ lâu trào ra trong tâm
thức. Tôi chỉ ngồi đó, và những điều kiện gớm ghiếc nầy cứ tiếp tục
hiện ra. Tôi nhớ lại tất cả những gì tôi đã làm, ngược dòng thời gian
về tận những ngày thơ ấu. Cuối cùng, tôi có một cái nhìn rất lạ, gần giống như
cái nhìn của những người mắc bệnh "phân liệt tâm thần
(schizophrenia)." Khi ngồi và quán sát, tôi thấy mẹ tôi và tất cả những
người mà tôi quen biết đang từ trong trí não của tôi đi ra. Tôi
chợt nghĩ, "Đây chính là bệnh điên, tôi sắp bị điên rồi!"
Nhưng không biết tại sao, tôi vẫn không lo ngại về điều nầy, tôi không
hoãng sợ chút nào cả; Ngược lại, tôi bắt bầy cảm thấy lý thú và hoan hỷ về việc
nầy. Cha tôi, mẹ tôi, chị tôi -- tất cả mọi người mà tôi đã biết -- đang
từ trong trí não của tôi bước ra! "Giã từ những người thân thương
nhé!" Sáng ngày hôm sau, tôi cảm thấy như vừa trút đi một áp lực hết
sức nặng nề. Cảm giác thoải mái nầy giống như cảm giác khi một ung
nhọt đầy mủ gớm ghiết vừa vỡ ra, và sự đau nhức đột nhiên biến
mất. Tôi ngắm nhìn chung quanh, và mọi vật trở nên đẹp đẽ lạ
thường! Cái cốc nhỏ mà tôi đang cư trú thật ra chỉ là một túp lều
tranh thô kệch và xiêu vẹo, nhưng lúc đó nó giống như một lâu đài nguy nga
tráng lệ. Ngay cả cái nhà tắm của tôi cũng trở nên xinh đẹp lạ thường, ánh
sáng mặt trời xuyên qua tấm vách đan bằng tre chiếu vào cái chậu nhỏ bằng
nhựa làm cho nó có vẻ thoát tục và nhẹ nhàng làm sao. Tôi đi bách bộ ra
ngoài và cả cánh rừng nhỏ như ngời sáng hẳn lên. Từ hồi bé đến giờ, tôi
chưa bao giờ thấy thế giới chung quanh đẹp đẽ đến thế.
Tôi chợt nhận ra là mình đã được xã hội huân tập để
sống với sự tự ý thức và kiềm chế chính mình. Tiến trình huân tập nầy, tiến
trình tự ý thức dày dò, trăn trở và quằn quại bởi những nỗi lo sợ và tham ái
nầy đã trở thành màng lọc cho tất cả những gì đi qua đời tôi. Nó làm
tôi nhớ lại những cửa kiếng xe hơi không ai lau chùi, và những cửa kiếng bị
những lớp bụi và khói dày che phủ khiến chúng ta không thể nào thấy và chiêm
ngưỡngđược cảnh đẹp ở bên ngoài. Khi hành thiền, tôi buông bỏ và từ giã tất cả,
lúc đó giống như tôi đang rửa sạch các cửa kiếng dơ bẩn nầy. Và xuyên
qua các cửa kiếng vừa được lau sạch, thế giới trở nên xinh đẹp
lạ thường. Do đó, hành thiền là làm cho tất cả hiện lên trong tâm,
nhận biết chúng, rồi buông xả tất cả. Đó chính là quá trình thanh lọc tâm.
ĐỐI DIỆN VỚI NHỮNG BÓNG MA
Thật may mắn là phần đông các thiền sinh không thấy
những hình ảnh khủng khiếp hay bị phân liệt tâm thần trong lúc hành thiền.
Thường thường "những vong linh từ cõi chết" sẽ hiện ra trong
tâm để khóc lóc và than phiền là "Ngươi đã xúc phạm đến
ta." "Tại sao ngươi đã không làm việc này cho ta." Những than
oán nầy hình như sẽ tiếp tục hiện lên trong tâm chúng ta một thời gian
nào đó rồi ngưng hẳn.
Ở Thái Lan, khi điều này xảy ra, người ta cho là hồn ma hiện
về, vì thế gia đình sẽ cúng dường trai tăng. Chư tăng sẽ đến nhà thí
chủ và tụng kinh, "Nguyện cầu cho tất cả chúng sinh được thoát khỏi
khổ đau và phiền não." Và lúc nào cũng thế, bóng ma sẽ biến mất
sau đó. Tôi không hiểu tại sao, bạn có thể suy đoán thêm về việc
nầy -- nhưng thái độ khoan dung và từ ái luôn là hành động mang lại
nhiều phước báu. Vì thế, khi thấy mình đang bị một vong linh
nào đó ám ảnh, bạn nên làm một việc phước thiện -- như cúng dường chư tăng
hay chư ni, hay giúp đỡ một người nghèo khổ nào đó -- và nguyện rằng
"Con xin hồi hướng phước báu nầy đến những vong linh khổ nạn
nầy."
Từ lúc mới sinh ra, người Thái Lan đã quen tin là có ma quỷ
trên đời. Họ có những câu chuyện đầy tưởng tượng và
hoang đường về ma quỷ và luôn nói về thế giới ma quỷ. Ngay cả những người
có học vấn cao trong xã hội Thái cũng tin là có ma quỷ; đó là một phần văn hóa
của họ. Nhưng trong tuổi thơ của tôi, không ai dạy tôi tin vào những điều
nầy. Khi tôi còn nhỏ, cha mẹ tôi nói là không có ma quỷ trên đời nầy. Vì
thế nên khi có dịp đến Thái Lan nơi mà người ta cho rằng có nhiều ma quỷ
kinh hãi lắm, tôi chưa hề thấy một con ma nào. Khi chúng tôi xây thiền viện
Bung Wai, tôi được gửi vào ở trong rừng nơi mà người ta đồn là những
loài ma quái ác nhất thường lãng vãng. Tôi cũng không biết về điều này mãi
cho đến ngày thứ ba sau khi ở đó, người ta mới bảo là có một con ma
ghê gớm lắm đang trú ngụ trong khu rừng mà tôi đang ở. Nhưng
dưới cái nhìn của tôi, khu rừng mà tôi đang ở và tu tập là tuyệt đẹp. Nhưng
người tin là có ma sẽ thấy ma khi họ đi vào khu rừng đó.
Thế thì hiện tượng ma quỷ là gì? Tâm chúng ta phản ứng như thế nào
với vấn đề nầy? Tôi không yêu cầu bạn phải tin hay không tin vào
những điều nầy, nhưng tôi mong bạn hiểu cách vận hành của tâm.
Khi đã được huân tập nhìn cuộc đời như thế nào thì những gì bạn
tin là có thật sẽ sinh khởi trong tâm bạn. Nếu sống trong một gia đình dạy
bạn tin là có ma từ lúc nhỏ, bạn sẽ rất dễ tin vào những gì người khác nói với
bạn, bạn sẽ khôngđặt nghi vấn về vấn đề nầy. Ngay cả khi vào đại học
và hiểu cuộc đời sâu sắc hơn, ở bình diện tình cảm bạn vẫn sợ ma
vì đây là cái nhìn được huân tập từ nhỏ. Tất cả chúng
ta đều có những lo sợ và quan kiến được huân tập từ lúc còn thơ ấu.
Và chúng ta phải để cho những lo sợ hay những quan kiến nầy trồi lên và hiện
ra trong tâm nếu chúng ta muốn thoát khỏi những kiềm kẹp của chúng.
BIẾT ĐƯỢC PHÁP HỮU VI VÀ PHÁP VÔ VI
Chúng ta phải biết rằng những lo sợ và nhận thức của chúng ta chỉ
là những điều kiện hay những gì do nhân duyên tạo thành. Chúng không phải
là sự thật tuyệt đối. Trong quá trình phát triển tâm linh, chúng ta
sẽ tiếnđến một trạng thái quân bình khi nhận ra rằng những gì sinh khởi trong
tâm chỉ là những điều kiện do nhân duyên tạo thành; điều nầy có nghĩa
là chúng bắt đầu rồi chấm dứt. Cho dù chúng là những điều kiện
vật chất hay tinh thần, chủ thể hay khách thể, chúng đều có cùng những tính
chất, đó là vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã.
Pháp vô vi hay pháp không điều kiện là cái mà bạn không thể
hiểu bằng khái niệm vì tất cả những khái niệmđều thuộc về các pháp hữu vi hay
các pháp điều kiện. Pháp vô vi là cái mà bạn phải trực nhận. Niết Bàn là
pháp không điều kiện, vì thế nên khi nói chúng ta hướng về Niết
Bàn, điều nầy có nghĩa là chúng ta hướng về các pháp vô vi hay các pháp
không điều kiện.
Thế thì pháp vô vi là gì? Bạn không thể thấy, ngửi, nếm, xúc chạm,
nghe, hay suy nghĩ về pháp vô vi nhưng nó là nơi mà tất cả pháp hữu vi hội tụ
về. Nó không thuộc về cảm giác. Nó là sự an tịnh. Nó không sinh khởi hay hoại
diệt, không có sự bắt đầu hay chấm dứt. Chính nó là cội nguồn mà
từ đó tất cả các pháp hữu vi được sinh khởi. Khi để tất cả sự
việc hiện lên trong tâm và ra đi, bạn đang để cho chúng trở về với pháp vô
vi hay pháp không điều kiện.
Thế thì mục tiêu tối hậu của con người là thấy và biết rằng các
pháp điều kiện chỉ là những điều kiện, và pháp không điều kiện
chỉ là pháp không điều kiện. Mục tiêu tối hậu của con người là trở
thành chính sự biết và thấyđó. Nói khác đi, mục tiêu tối hậu của
chúng ta là chánh niệm. Đó không phải chỉ là một niềm tin tôn giáo, đó là cái
mà chính bạn phải thực hành -- và không ai có thể làm thế điều nầy cho
bạn. Và đạo Phật là chiếc xe, là quy ước, là cách thức, là truyền
thống giúp bạn phá vỡ và đi xuyên qua những ảo tưởng, thoát khỏi những
trói buộc của những điều kiện của thế giới luân hồi sinh tử. Khi
thấy được pháp không điều kiện, hay pháp vô vi, hay Niết bàn, lúc đó,
bạn đang ở trạng thái vô sanh và bất tử.
*
* Câu hỏi: Chúng ta nên dành bao nhiêu công
sức và ý chí trong lúc hành thiền? Tôi nghe Sư giảng về tâm thanh tịnh và rạng
rỡ, nên tôi cố gắng tinh tấn để tâm thanh tịnh và rực sáng bằng cách chấm
dứt hoặc ngừng lại dòng suy nghĩ của mình. Nhưng làm như thế, tôi chỉ thấy căng
thẳng và cứng nhắc, nhưng tôi lại nhớ đến những gì Sư nói về tâm buông bỏ,
nên tôi cố gắng thư giản. Nhưng sau đó, tôi lại dã dượi buồn ngủ, và trí
óc từ từ uể oải và hôn trầm. Xin Sư giảng thêm về vai trò của sự tinh tấn và ý
chí trong khi thực hành giáo pháp.
Trả lời:
Chúng ta nên để ý đến vai trò của Chánh tinh tấn hay tinh tấn đúng
đắn, chứ không phải ý chí hay quyết tâm tinh tấn. Trong thế giới phương
Tây, chúng ta luôn có đầy quyết tâm và ý chí. Nhưng quyết tâm và ý chí nầy
nhất định không phải là Chánh tinh tấn.
Thỉnh thoảng chúng ta vận dụng tâm để ép buộc và
thúc đẩy chúng ta làm việc. Nhưng rồi, có những lúc, chúng ta không cố
gắng gì cả và nằm lăn ra đó. Đây là hai thái cực. Một mặt, bạn dùng quá
nhiều sức để làm việc mà bạn không thể chịu dựng lâu dài. Mặt khác, vì bạn
thả nổi, không làm gì cả, bạn dùng quá ít năng lực để rồi lăn đùng ra đó
mà ngủ.
Chánh tinh tấn đến từ chánh niệm và chánh niệm luôn
chứa đựng khả năng chịu đựng. Nếu sử dụng năng lượng vừa phải trong
một hoàn cảnh nào đó, bạn sẽ có khả năng chịu đựng lâu dài. Đôi khi, bạn
phải sử dụng một năng lượng rất lớn trong một lúc nào đó, nhưng đó chỉ là những
trường hợp đặc biệt và hiếm hoi. Trong xã hội hiện đại, nhiều lúc bạn có
thể sử dụng rất ít năng lượng và chỉ cần trôi theo dòng chảy của cuộc đời
vì xã hội có thể lo cho bạn -- bạn chỉ cần sống qua ngày là đủ. Chánh
tinh tấn là biết sử dụng đúng năng lượng trong một thời điểm nào đó
và trong một hoàn cảnh nào đó. Chính niệm sẽ chỉ cho chúng ta thấy
khi nào chúng ta mệt mỏi quá độ và cần phải đi ngủ, khi nào phải dùng
sức thật nhiều để làm một việc cần nhiều sức lực, và khi nào chỉ cần sống
với cái bình thường của cuộc đời -- cứ sống theo dòng diễn biến của
mọi sự vật mà không theo thái cực nầy hoặc thái cực kia.
-------------------------------------
Thiền
Giữa Đời Thường: Phương pháp Thiền Phật giáo nguyên thủy
(Thiền Vipassana)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét