Roger Wheeler: Điều gì thu hút ngài đến với Phật giáo?
Theo ngài, Phật giáo đã cống hiến những gì?
Ajahn Sumedho: Con đường giải thoát.
Wheeler: Ngài cũng đã từng tu tập vài pháp môn phải
không?
Sumedho: Có một thời tôi hoàn toàn một con chiên
ngoan đạo của Chúa Giê-su, nhưng sau đó tôi đoạn tuyệt với Thiên Chúa giáo, chủ
yếu là do tôi không hiểu được giáo lý và không thể tìm được bất cứ ai có thể
giúp tôi thấu hiểu nó. Dường như không có bất cứ phương pháp tu tập nào trong
Thiên Chúa giáo, khác hơn là niềm tin đơn giản hoặc sự chấp nhận mù quáng những
gì đã được rao giảng.
Điều gây ấn tượng nhất cho tôi đó là Phật
giáo này không đòi hỏi người ta tin tưởng một cách đơn thuần. Đó là một cách
thức giúp người ta thoát khỏi sự hoài nghi. Nó cống hiến một phương pháp thực
tiễn phát hiện chân lý thông qua kinh nghiệm bản thân, tốt hơn thông qua sự
chấp nhận giảng dạy của người khác. Tôi nhận ra rằng đây là phương cách tôi
phải thực hiện, bởi vì đó là bản chất của tôi: ưa hoài nghi và chất vấn, hơn là
có niềm tin. Do đó, những tôn giáo yêu cầu người ta chấp nhận bằng đức tin là
không thể được. Tôi không thể nào ngay cả sự khởi lên tiếp cận chúng.
Khi tôi hiểu được Phật giáo, nó giống như
một sự soi sáng cho tôi, bởi vì tôi đã thấy rằng những khuynh hướng tôn giáo
của một người có thể được đáp ứng bằng cách này. Trước đây, tôi cảm thấy buồn
phiền trong một sự kiện rằng tôi đã biết thế giới vật chất không làm cho tôi
hài lòng; và tuy tôn giáo mà tôi được nuôi dưỡng bằng sự dâng hiến, đã không
đem lại một pháp tu nào khác hơn là đức tin mù quáng.
Phật giáo thật sự là một điều khám phá đầy
lý thú.
(Tiếp đến Ajahn Sumedho đề cập đến việc
ngài có những nguồn cảm hứng do những cuốn sách của thiền sư Suzuki, và đã gặp
gỡ được Phật giáo ở Nhật Bản trong lúc tham gia vào lực lượng Hải Quân Mỹ trong
cuộc chiến tranh Triều Tiên).
Wheeler: Sau khi kết thúc sự phục vụ trong lực
lượng Hải quân, ngài lưu lại California hay quay trở lại Châu Á?
Sumedho: Sau khi rời Hải quân, tôi đi học lại ở
Trường Đại học để hoàn tất bằng cử nhân (B.A) về môn Nghiên Cứu vùng Viễn Đông.
Rồi ghi danh ở đại học California ở Berkeley lấy bằng M.A về môn Nghiên cứu Á
Châu. Khi tôi hoàn tất chương trình học này vào năm 1963, tôi tham gia vào Tổ
chức Hòa Bình.
Wheeler: Điều nào thu hút Ngài đến Thái Lan hơn là
Nhật Bản, ví dụ những lời giáo huấn của Suzuki xuất phát từ đâu?
Sumedho: À, tôi đã sống một nơi thuộc về thế giới
này. Tôi cũng nhớ đến những mùa đông lạnh giá của xứ sở Nhật Bản. Bởi vì Thái
Lan có một khí hậu nắng ấm ôn hòa, tôi cảm thấy rằng mình cũng tìm được điều gì
đó mà thời tiết đã dành cho tôi, vì tôi sợ phải sống suốt những mùa đông băng
giá.
Wheeler: Có phải ngài đã đi thẳng đến Tu Viện của
thiền sự Ajahn Chah?
Sumedho: Không, đầu tiên tôi đến Bangkok, ở đó, tôi
hành thiền với tư cách là một cư sĩ. Vào buổi sáng tôi dạy Anh ngữ ở đại học
Thammasat và buổi tối bắt đầu tu tập thiền.
Rồi sau đó tôi quyết định xuất gia, nhưng
tôi không muốn sống ở Bangkok. Trong khi tôi đi nghỉ hè ở Lào, tôi gặp gỡ một
nhà sư Canada. Ông ta góp ý rằng tôi có thể xuất gia ở một thành phố nhỏ của
Thái Lan, nằm ngang bờ sông Mekong. Vì thế, tôi nghe theo lời khuyên của ông ta
và xin xuất gia ở một ngôi chùa ở Nong Khai.
Vào năm đó, cơ bản là tôi tự mình tu tập,
không có vị thầy nào hướng dẫn. Năm sau, tôi gặp một môn đồ của thiền sư Ajahn
Chah. Ông ta là một nhà sư Thái biết nói tiếng Anh, và rồi ông ta đưa tôi đến
gặp thiền sư Ajahn Chah. Tôi lưu lại tu viện của ngài Ajahn Chah gần 10 năm.
Wheeler: Ngài đề cập rằng chính khía cạnh hoài nghi
của Phật giáo đã thu hút ngài. Người ta có thể hoài nghi. Chính điều này thường
xảy ra với những người bị thu hút đến với truyền thống Phật giáo Tây Tạng do
bởi nhân cách hoặc trí tuệ của người thầy. Có phải những vị thiền sư có vai trò
quan trọng như thế trong truyền thống Nguyên Thủy?
Sumedho: Không. Họ cố gắng giảm bớt việc đặt nặng
vấn đề này, tuy vậy, người ta thường bị các thiền sư thu hút. Đây là điều rất
tự nhiên. Tuy vậy, chính giới luật đã được đặt ra để điều này ngăn tô điểm thêm
cho vị thầy. Một người tuân giữ giới luật bằng thái độ tôn kính và hành động bi
mẫn đến bất cứ vị thầy nào hoặc bất cứ ai.
Thật sự tôi không đi tìm kiếm một vị thầy.
Tôi không cảm thấy cần có một vị thầy đặc biệt. Tuy vậy tôi có lòng tin vào
giáo pháp của Đức Phật. Khi tôi gặp ngài Ajahn Chah, lòng tin của tôi lại càng
gia tăng, khi tôi nhận ra được ngài thật là một người thông thái. Trước hết là
tôi yêu mến ngài, nhưng tôi không cảm thấy mộ đạo. Tuy vậy, tôi đã lưu lại nơi
này... và tôi thật sự không hiểu được lý do, bởi vì nơi này có nhiều điều tôi
không thích lắm. Tuy thế, dường như tôi lại ở đây - đến 10 năm chứ!
Wheeler: Ngài Ajahn Chah thường dạy dỗ các môn đồ
của mình ra sao?
Sumedho: Ngài Ajahn Chah thành lập tu viện để đem
lại cơ hội cho mọi người muốn xuất gia và tu tập thiền Phật giáo. Như vậy, điều
chính yếu ngài đem lại là một nơi tu tập, một môi trường dẫn dắt.
Bản thân giáo lý chỉ là giáo lý truyền
thống Phật giáo về Tứ Diệu Đế. Ngài triệt để tôn trọng Giới Luật (Vinaya) - quy
tắc về các luật lệ tu tập do đức Phật đặt ra và có ghi trong Kinh Tạng Pali.
Một phần của sự hòa hợp để sống nơi đây, đó là các nhà sư thích nghi cách cư xử
của họ đối giới luật truyền thống.
Tôi cảm thấy đó là điều tôi rất cần. Đó là
một cơ hội để sống theo quy ước thuộc giới luật truyền thống. Bản thân tôi rất
tùy tiện, buông thả và tôi nhận ra rằng đó là sự yếu đuối quá lớn lao trong bản
chất của tôi. Tôi bực bội với quyền lực, và không biết cách nào để thích nghi
với giới luật. Vì thế tôi hết sức hài lòng có cơ hội để thực hiện điều này. Nó
là một sự thử thách tốt đẹp đối với bản thân tôi và tôi biết rằng điều đó tôi
cần phải làm. Nơi tôi vẫn còn nhiều ngã mạn, tôi muốn sống theo ý riêng của
mình. Ngài Ajahn Chah rất nghiêm khắc, chúng tôi phải sống theo những điều kiện
mà tu viện đặt ra. Tôi học tập để thực hành giới luật ở nơi đây.
Ngài Ajahn Chah không nhấn mạnh phương
pháp. Ngài chỉ nhấn mạnh sự tỉnh giác suốt ngày đêm, giữ chánh niệm và theo dõi
sự vô thường của các điều kiện như là người ta cảm nhận về cuộc sống.
Suốt năm đầu tiên trong khi sống ở
Bangkok, tôi hành thiền một mình. Bởi vì tôi hiểu được kỹ thuật thiền, nên khi
tôi đặt chân đến tu viện Wat Pah Pong, ngài Ajahn Chah chỉ khuyến khích tiếp
tục thực hành những gì tôi đã từng học hỏi ở Bangkok. Ngài không đòi hỏi tôi
thích nghi cách ăn ở của mình ở bất cứ hình thức đặc biệt hoặc kỹ thuật khác,
ngoài giới luật (vinaya) của các nhà sư.
Tôi xin đọc cho ông nghe một vài điều về
truyền thống Krishnammti. Ông ta nói:
"Dời quá khứ đến hiện tại, giải thích
hoạt động của hiện tại dưới dạng quá khứ là hủy hoại vẻ đẹp sống động của hiện
tại. Truyền thống dù cổ hay tân cũng không phải là bất khả xâm phạm. Một đầu óc
chứa nặng những ký ức về quá khứ, mà quá khứ là truyền thống - và không dám
buông bỏ, là vì đầu óc đó không có khả năng đương đầu với những điều mới lạ.
Truyền thống trở thành sự an toàn của chúng ta, và khi tâm an toàn là tâm đang
ở trong tình trạng suy nhược. Người ta phải lên đường nhẹ nhàng, không vướng
bận, không cần chút nỗ lực nào cả, và cũng không bao giờ dừng lại ở bất cứ đền
thờ nào, bất cứ đài kỷ niệm nào, hoặc vì bất cứ vị anh hùng nào, xã hội hay tôn
giáo nào. Hãy lên đường một mình với vẻ đẹp và tình yêu thương." [1]
Wheeler: Bây giờ sự hiện diện của ngài ở đây là một
sự thể hiện rõ ràng về sự nối tiếp một truyền thống đã và đang tiếp diễn hơn
2500 năm. Về lời trích dẫn này. Tôi tự hỏi liệu người ta cũng có thể bị dính
mắc trong hình thức, quên mất đi mục đích theo đuổi? Hoặc nói cách khác, làm
cách nào người ta có thể tránh được sự chấp thủ hình thức?
Sumedho: À, nó giống như việc lái một chiếc xe.
Người ta có thể gạt bỏ đi tập quán sử dụng xe hơi, và nói "Tôi sẽ không lệ
thuộc vào điều này bởi vì nó xuất phát từ quá khứ. Vì thế tôi sẽ đi bộ đến
thành phố New York"; hoặc, "Tôi sẽ tự mình phát minh một chiếc xe,
bởi vì tôi không muốn sao chép của một người nào khác". Điều mấu chốt nói
về chiếc xe được sử dụng thì không nhiều lắm, nhưng vấn đề là việc đến được New
York. Dù người ta đi chậm hay nhanh, người ta nên dùng những gì đã có sẵn, bất cứ
phương tiện gì mà người ấy có thể tìm thấy ở chung quanh mình. Nếu không có,
hãy sáng chế một cái, hoặc đi bộ. Người ta phải làm hết khả năng của mình nếu
có thể được. Nhưng nếu có một điều gì gần gũi, tại sao không học hỏi để sử dụng
nó -- nhất là nó vẫn còn có thể hoạt động được?
Vì vậy truyền thống là như thế đó. Nó
không phải là sự bám víu. Người ta cũng có thể bám víu vào tư tưởng mà
người đó không cần đến truyền thống, nó chỉ là một khái niệm hoặc một quan điểm
khác. Những lời trích dẫn như thế này là nguồn cảm hứng, nhưng chúng không phải
luôn luôn hết sức thực tiễn, bởi vì người ta có thể tạo nên quan điểm khác mà
những truyền thống bị sai lệch hoặc có hại như ông thấy. Vấn đề không nằm trong
truyền thống, nhưng lại nằm trong sự bám víu, chấp thủ. Thân xác này là một
hình thức quy ước đến từ quá khứ. Ngôn ngữ chúng ta dùng, thế giới chúng ta
sinh sống, và những xã hội mà chúng ta góp phần, tất cả là những hình thức qui
ước được sản sinh ra từ quá khứ. Chúng ta đang ở trong một thế giới quy ước. Chúng
ta không đặt thành vấn đề việc nương dựa vào những quy ước, nhưng học cách sử
dụng chúng một cách thiện xảo. Chúng ta có thể dùng ngôn ngữ để tán gẫu, dối
trá, và trở thành những diễn giả làm cho người ta mê muội; chúng ta có thể trở
thành những người cầu toàn với lời lẽ dao to búa lớn. Điều quan trọng là người
ta phải hiểu rằng ngôn ngữ dùng để giao tiếp, truyền đạt. Khi tôi truyền đạt
điều gì đó cho anh, tôi đây cố gắng trình bày càng rõ ràng và thẳng thắn càng
tốt. Đó là một kỹ năng. Nhưng nếu lưỡi của tôi bị cắt đi, tôi sẽ chỉ học hỏi để
sống mà không có lời nói - vấn đề là như vậy. Sự việc này sẽ không phải là một
nỗi muộn phiền lớn lao, nhưng có một chút bất tiện - đối với một đôi điều;
nhưng có thể thuận lợi đối với nhiều điều khác.
Những truyền thống tôn giáo chỉ là những
quy ước có thể được người ta dùng hoặc không, tùy theo thời gian và nơi chốn.
Nếu một người biết sử dụng truyền thống, người này có nhiều thuận lợi hơn người
không biết, họ cho rằng đó là những điều làm mất thời giờ vô ích. Một người có
thể đến nhà thờ Thiên Chúa giáo, đến ngôi chùa Phật giáo Nguyên Thủy, hoặc một
giáo đường Do Thái, và tôn kính, cảm xúc theo một quy ước mà người ấy tự mình
khám phá, không có cảm nghĩ rằng nó xấu xa hay sai trái. Điều này không tùy
thuộc chúng ta quyết định: tất cả chúng đều dựa trên cơ bản làm điều thiện,
tránh xa điều ác. Do đó, nếu ai bám víu vào chúng, sẽ bị chúng trói buộc. Nếu
một người xem tôn giáo chỉ là một quy ước, như thế, người này có thể học cách
sử dụng nó thích đáng. Tôn giáo là chiếc bè đưa người đó sang sông.
Wheeler: Ngài đề cập rằng những truyền thống có thể
sử dụng tùy thuộc thời gian và nơi chốn. Tôi nhận thấy rằng ngài thường đi khất
thực vào buổi sáng. Về khía cạnh này, tôi phát hiện điều này thật đáng ca tụng.
Mặt khác, tôi tự hỏi loại ảnh hưởng nào tác động đến xã hội không theo đạo
Phật? Đối với một người gia trưởng trung lưu, một người mặc y vàng hoặc y đỏ có
thể là bất cứ một điều gì đó đối với một thí chủ Hare Krishna, để làm ... bất
cứ điều gì.
Truyền thống đang theo, vào thời điểm này,
vào nơi chốn này, đang làm hại hơn là lợi phải không? Liệu nó có thể làm xúc
phạm những người này không?
Sumedho: Vâng, mục đích là tốt lành, thời điểm là
bây giờ, và nơi chốn là ở đây. Một số người sẽ lấy làm khó chịu; một số người
khác nhận thấy nó thật tốt đẹp. Ở Anh quốc, điều này khiến cho một số người khó
chịu, nhưng đôi lúc người ta cũng cần phải bị khó chịu. Họ cần phải bị lay động
một chút, bởi vì người ta có thể tự mãn ở những quốc gia này.
Đi khất thực cũng thu hút những người tốt,
những người thích thú điều này. Chúng ta không có ý định gây "sốc"
hoặc gây nguy hại. Tôi được che chở một cách khiêm tốn và tôi không lừa họ
trong bất cứ mối quan hệ nào, hoặc làm hại họ dưới bất cứ hình thức nào. Ngược
lại, việc khất thực nó mang lại cho họ cơ hội để bố thí (dana), nếu họ thật sự
sẵn lòng.
Ở Anh quốc, có một điều phải công nhận
rằng hầu hết mọi người không hiểu được điều này. Tuy thế đối với tôi, dường như
việc đi khất thực là một quy ước tôn giáo đáng được duy trì.
Việc này giống như đem lại chất bồi dưỡng
vào tôn giáo lần nữa. Nó thúc đẩy các nhà sư hoạt động trong xã hội.
Khi đức Phật còn là một hoàng tử (trước
khi thành đạo), ngài đi ra khỏi cung điện và thấy được 4 vị sứ giả, họ đã thay
đổi cuộc đời của ngài. Đầu tiên là một người già, thứ hai là một người bệnh,
thứ ba là một tử thi, thứ tư là một nhà sư tham thiền dưới một cội cây. Tôi xem
điều này như một thông điệp. Tôi không mang theo nó khắp nơi như là một bổn
phận tôi phải thực hiện nó, nhưng chỉ một phần cuộc sống của tôi, cách tôi sống
ở đời. Nếu mọi người phản đối và nhận thấy nó sai trái, nếu nó gây khó khăn cho
tất cả mọi người, như vậy tôi sẽ không thực hành nó. Tuy vậy điều này đã chưa
hề xảy ra.
Nhiều người nghĩ rằng tôi đừng nên đi khất
thực trong làng. Họ cho rằng đây là điều ngớ ngẩn. Một số người Anh cũng như
những Phật tử đều cảm thấy rằng, chúng tôi nên thích nghi với phong tục nước
Anh. Tuy vậy, tôi quyết đi khất thực khi có cơ hội. Tốt hơn là quyết định liệu
tôi có nên thích ứng với phong tục của người Anh hay không. Đơn giản là tôi chỉ
mang đến một truyền thống và thực hiện nó bằng việc nghe. Do đó tôi cảm thấy nó
sẽ diễn ra phù hợp với hình thức của nó. Nếu một người xén bỏ truyền thống ngay
trước khi gieo nhân mới, người ấy thường cắt đứt hoặc xem nhẹ toàn bộ tinh thần
của truyền thống đó. Toàn bộ truyền thống dựa trên lòng bác ái, nhân từ, sự tốt
lành, đạo đức... và tôi không làm điều gì sai trái. Tôi có thể đang thực hiện
tốt đẹp những việc mà mọi người không hiểu được...
Wheeler: Trong tâm tôi, và tôi tưởng tượng trong
tâm của những người khác cũng vậy, việc đi khất thực dường như là một loại chấp
thủ vào hình thức và truyền thống.
Sumedho: Như vậy người đó không có chánh niệm.
Wheeler: Làm thế nào để người ta giữ được tâm tỉnh
giác cả ngày lẫn đêm? Trong khi thực hiện những nghi lễ nào đó tụng kinh hoặc
đi khất thực, làm thế nào để người ta có thể tránh được trong cuộc sống hàng
ngày của chúng ta lập đi lập lại một cách máy móc?
Sumedho: Cuộc sống hàng ngày là máy móc và đều đặn.
Thân xác là máy móc và đều đặn. Xã hội cũng cùng một cách thế. Tất cả những sự
việc pha trộn nhau cứ lập đi lập lại giống nhau. Nhưng tâm của chúng ta không
còn bị những thói quen đó đánh lừa nữa.
Wheeler: Krishnamurti nói: "Những người tu
hành sống trong tu viện, trong sự cách ly, hoặc đi đến một ngọn núi cao, một
nơi vắng vẻ, tâm của họ bị bắt buộc phải thích nghi với một khuôn mẫu đã được
đặt để " [2]. Trước đây ngài nói rằng ở tu viện của ngài Ajahn Chah, ngài
đang thích nghi với một quyền lực bởi vì ngài đã cảm thấy rằng trước đó ...
Sumedho: Người ta đang thích nghi hành động của
mình vào một khuôn mẫu. Sự việc là thế đó.
Wheeler: Đúng vậy, Krishnamurti nói: " Họ đang
buộc tâm của họ đi vào một khuôn mẫu. Tâm thật sự thích nghi với một khuôn mẫu
đã được đề ra, chứ không chỉ thân xác. Chúng phụ thuộc vào nhau."
Sumedho: Đúng. Đó là sự thực hành Samatha (thiền định): tin vào giáo lý và thấm
nhuần vào sự tu tập. Nhưng đấy không phải là mục đích của thiền Phật giáo.
Wheeler: Thiền Samatha hòa hợp với giáo lý chứ?
Sumedho: Nếu một người tin tưởng vào giáo lý, những
ý tưởng trong tâm của một người đó sẽ chấp nhận một giáo lý nào đó, và loại bỏ
những giáo lý nào không thích hợp. Như vậy cũng có sự tu tậpthiền vắng lặng
(samatha), ở đây, người ta rèn luyện tâm tập trung vào một đề mục. Sự tu
tập này làm cho tâm yên tĩnh và vững chắc.
Wheeler: Có phải ngài đang gọi nó là "một
khuôn mẫu" đã được đặt để?
Sumedho: Đúng. Nhịp thở đầu đều của một người là
một khuôn mẫu (nền tảng) mà anh bám vào và chấp thủ nó phải không? Nó đem lại
một sự vắng lặng nào đó cho tâm.
Wheeler: Người ấy không được "bám víu"
vào hơi thở. Sự thở xảy ra tự nhiên. Người ấy có thể nói rằng mình quan sát hơi
thở ...
Sumedho: Người ấy chỉ tập trung vào hơi thở. Vào
một khoảnh khắc đặc biệt người ấy hoàn toàn tập trung và không còn để ý đến các
đối tượng khác.
Wheeler: Tôi hoàn toàn không đồng ý. Điều đó như
thế nào với cái tâm có thói quen theo một giáo điều?
Sumedho: Bất cứ vật gì cũng là một khuôn mẫu hoặc một điều kiện (sankhara), nếu
một người đặt niềm tin vào sankhara đó, người ấy sẽ trở thành sankhara đó. Nếu một người chấp thủ vào bất
cứ đối tượng nào, rồi sẽ trở thành đối tượng đó. Như vậy, khi một người đang
tập trung vào hơi thở bình thường, rồi người ấy sẽ trở thành hơi thở bình
thường đó, Theo tinh thần, hình dáng của một người diễn ra theo hình thức này,
một người đồng hóa với đối tượng đó cho đến bao lâu sự tập trung còn hiện hữu.
Sự kiện giống như vậy phù hợp với giáo lý.
Chúng là những thế giới của những hình thể (sắc) quy ước và thói quen. Một
người có thể được ví như là một đức tin trong ý nghĩ của những người khác,
trong những giáo pháp và các tín ngưỡng, trong những điều mà người khác phát
biểu.
Chánh niệm là không bám víu. Điều mà
Krishnamurti vạch ra là sự tỉnh giác về bản chất biến đổi, cái cách mà vạn vật
đích thực hoàn hữu trong một khoảnh khắc. Nhưng ông ta phát biểu quá cao siêu.
Hầu hết mọi người, dù cho họ cố suy nghĩ những điều mà ông ta phát biểu, cũng
không thể thấu hiểu được.
Đó là những gì mà người ta nhận biết được
qua sự từ bỏ. Một người phải đi xuống một vị trí hết sức hèn mọn, điều đó được
ngài Ajahn Chah gọi là con giun đất, chỉ là một điều rất đơn giản và không mong
đợi được bất cứ kết quả nào. Làm lành, lánh dữ, luôn giữ thân, khẩu, ý, trong
chánh niệm
Wheeler: Tại sao các tôn giáo suy thoái?
Sumedho: Bởi vì chúng chỉ là tục đế (sự thật quy
ước). Chúng không phải chân đế (sự thật tối thượng).
Wheeler: Nhưng người ta không hành trì. Họ chỉ tu
tập một cách máy móc. Khi một vị thầy (thiền sư) hướng dẫn một khóa thiền ở
đây, người ta thường nêu lên một câu hỏi Đạo Phật được coi là một tôn giáo hòa
bình, và người ta cho rằng chiến tranh chưa bao giờ khởi lên do đạo Phật. Nhưng
hãy nhìn vào Tây Tạng và Campuchia, nhiều người đã bị tàn sát. Ở nước Lào, các
nhà sư làm việc trên các cánh đồng. Một người đến viếng nhà sư Campuchia, đã
nói rằng, về cơ bản, người ta không hành trì, và đó là lý do Phật giáo bị tan
rả, là lý do có quá nhiều hỗn loạn.
Sumedho: À, tại sao thế giới lại như thế? Tại sao
họ lại hủy diệt hàng triệu người Campuchia? Người ta có thể suy đoán. Nhưng một
điều duy nhất mà người ta có thể biết là những điều kiện về cái tâm của một
người - tham, sân và si - là phản ánh về thế gian, cái cách của nó là thế. Thế
giới có những vụ thảm sát, chết chóc, bạo ngược và hủy diệt bởi vì chúng ta
thực hiện những việc đó suốt trong tâm trí chúng ta.
Ông đã làm gì trước khi xuất gia, hoặc
ngay trong khi được xuất gia? Ông đã cố gắng loại trừ nhiều điều ra khỏi tâm
của mình phải không? Nếu ông nổi giận, ganh tỵ, có những ý nghĩ bẩn thỉu, ông loại
trừ chúng, do bởi anh nghĩ rằng đó là phương cách để giải quyết vấn đề. Một
người diệt trừ những điều này vì cho rằng chúng là nhân khổ đau của mình.
Bây giờ hãy áp dụng những điều này cho một
quốc gia như Campuchia. Chính quyền Khơme Đỏ cho rằng giai cấp tư sản trung lưu
là nhân của khổ - vì thế chánh quyền này tiêu diệt nó. Sự việc diễn ra ở cùng
một nguyên tắc.
Giáo lý của Phật giáo là bất bạo động.
Người ta không hủy diệt loài gây hại, nhưng còn phải hiểu rằng ngay cả tâm của
loài gây hại cũng là vô thường và vô ngã. Chúng sẽ tự mình biến mất.
Nhiều điều mà chúng ta sợ lại thật sự là
những người bạn thân thiết của mình - giống như sự tự sợ hãi. Chúng ta lo sợ về
cái chưa từng biết, nhưng chính điều không biết là con đường dẫn đến giác ngộ.
Không biết là điều mang đến nỗi khiếp sợ cho cuộc sống con người. Nhiều người
dành phần lớn cuộc đời để cố gắng tìm sự an toàn ở một số hình này hoặc hình
thức khác, do bởi sợ hãi. Nỗi lo sợ đưa đẩy họ trở thành như thế này, hoặc bám
víu vào điều khác, dành dụm thật nhiều tiền, đi tìm lạc thú hoặc tìm một nơi an
toàn để sống, hoặc tìm kiếm một con người lý tưởng họ hy vọng rằng sẽ giúp họ
hạnh phúc mãi mãi. Đó là nỗi sợ hãi cô đơn, sợ điều chưa từng biết - về những
gì chúng ta không thể biết. Trong lúc tham thiền, khi người ta có chánh niệm
(sự chú tâm), chính sự sợ hãi đó - nhận thấy được chân tướng của nó - đưa chúng
ta đến sự bất tử, sự vắng lặng. Tuy thế, nỗi sợ hãi là một cái gì đó mà chúng
ta phản ứng rất mạnh mẽ.
Như vậy, nếu một người không thể bình an
với những điều làm hại cái tâm của mình, người ấy không thể mong đợi quá nhiều
vào một chánh quyền giống như Khờ me Đỏ, hoặc phần lớn các nguyên lý vũ trụ
được khá hơn. Chúng ta cũng không có quyền đổ trách nhiệm to tát như vậy cho xã
hội. Vạch lỗi của Mỹ, đó là điều dễ làm, - hoặc vạch lỗi của Campuchia hoặc Tây
Tạng - do bởi các nhà sư đã không tu tập chuyên cần hoặc người dân Campuchia
không phải là những Phật tử thuần thành, điều này thật sự hơi ngớ ngẩn.
Anh sẽ xử sự ra sao về việc này? Đó là
điều tôi đang đề cập. Tôi không thể trợ giúp thế giới quan điên rồ của Pol Pot.
Cái cách mà hắn ta dự định giải quyết vấn đề thật vô cùng ngu dại. Nhưng tôi
cũng đã từng nhận ra chính sự ngu ngốc giống như thế trong bản thân tôi; nỗi
ham muốn tiêu diệt điều mà tôi không ưa thích, hoặc điều mà tôi cho là nguyên
nhân đau khổ của thế giới, hoặc của bản thân tôi. Đó là nơi người ta có thể
thấy được những gì phát sinh ra vấn đề. Người ta có thể nói "Ồ, các nhà sư
tu tập không nghiêm túc" nhưng điều này thật sự không công bằng.
(Câu hỏi tiếp không được ghi vào)
Tôi đã từng có một kinh nghiệm rất thuận
lợi với thiền sư, Ajahn Chah, và thấy được ngài là người hạnh phúc, khoan dung
và hài hòa biết bao. Lẽ dĩ nhiên, có nhiều đệ tử của ngài cũng không hiểu những
điều ngài dạy dỗ. Tuy vậy ngài thực sự làm cho nó rõ ràng và mang lại cho họ
từng cơ hội để tu tập và khám phá.
Khi người ta nói về dukkha (khổ), (Đế thứ nhất) Khổ Đế, người ta
không nói một cách trừu tượng về dukkha - "ngoài dukkha". Dukkha tồn
tại như một sự việc vô danh. Tôi đang nói về chính cái cảm giác đó trong một
người, ở nơi đây (chỉ về bản thân người ấy), điều này cảm thấy không hoàn toàn
hạnh phúc hoặc cảm thấy khó chịu một chút, lo lắng, không hài lòng, không an
toàn, hoặc không được thanh thản. Người ấy tự mình cảm nhận được Khổ Đế.
Người ta không chỉ rõ dukkha như một điều mơ hồ nào đó đang lơ lửng
khắp thế gian. Nếu một người thật sự nhìn vào tâm của mình, người này thấy sự
bất mãn, bất an, sợ hãi và lo lắng. Đó là những gì mà người ấy có thể tự mình
nhận thấy được. Người ta không buộc phải tin. Thật là ngu xuẩn khi nói rằng;
"Tôi tin vào khổ đế" hoặc "Tôi không tin vào khổ đế. Tôi tin
rằng mọi điều đều tuyệt vời". Tin hay không tin thì không quan trọng,
nhưng đúng hơn, người ta hãy nhìn sâu vào nội tâm và tự hỏi "Tôi có luôn
luôn cảm thấy tuyệt vời và hạnh phúc không? Có phải cuộc sống là một nguồn vui
liên tục? Hoặc đôi khi tôi có cảm thấy phiền muộn, hoài nghi, lo sợ
v.v...?"
Chỉ nói riêng về cảm nhận của bản thân
tôi, tôi có thể nhận thức rất nhiều về khổ đế. Không phải là tôi muốn chấp nhận
một ý hệ bi quan. Tôi nhận ra rằng có một nỗi sợ hãi, bất an, phiên muộn trong
bản thân tôi.
Tuy vậy, khổ đế (thánh đế thứ I) không
phải là một chủ thuyết. Nó không nói "Đời là khổ" nhưng chính xác hơn
nó chỉ nói rằng "Có điều này". Nó đến rồi đi. Nó sinh (Tập đế), nó
diệt (Diệt đế; thứ ba) và từ đó dẫn đến sự hiểu biết Bát Chánh Đạo (Đạo đế). Đó
là một cái nhìn rõ ràng vào sự siêu nghiệm của khổ, tất cả của thông - qua
chánh niệm. Bát Chánh Đạo chỉ là sự chánh niệm trong đời sống hàng ngày.
Wheeler: Tuy vậy chính chánh niệm không phải là một
yếu tố nhân thiện.
Sumedho: Trung tính. Nó không thuộc về bất cứ ai.
Nó không phải là những gì mà người ta thiếu; nó không phải là một sở hữu cá
nhân.
Wheeler: Có những sở hữu tâm thiện và sở hữu bất
thiện, và có những sở hữu luôn luôn hiện diện, giống như chánh niệm. Chánh niệm
không phải là tốt đẹp bẩm sinh.
Sumedho: Đó là sự tỉnh giác về thiện, ác như là sự
đổi thay. Bằng cách dùng tuệ phân biệt (sati-panna),
người ta thấy những điều thiện và ác là vô thường và vô ngã. Sự chánh niệm này
giúp cho người ta thoát khỏi ảo tưởng cho rằng những điều thiện ác này có
khuynh hướng có sẵn.
Wheeler: Tôi xin được quay trở lại một chốc lát về
vai trò của truyền thống. Ngài có cảm thấy rằng sự trung thành tuyệt đối với
một truyền thống đặc biệt thường có khuynh hướng phân biệt giữa truyền thống
này và truyền thống khác mà đã có những giá trị chắc chắn nào đó?
Sumedho: À, theo mức độ quy ước, dù gì đi nữa mọi
vật đều riêng biệt. Anh với tôi là một người khác biệt, là một thân xác khác
biệt. Điều khác biệt này chỉ có thể được giải quyết khi chúng ta hợp nhất với
nhau bằng sự phát triển trí tuệ. Còn với hình dạng quy ước này thì chỉ có sự
phân biệt. Sẽ luôn luôn có đàn ông, đàn bà và vô số quy ước tôn giáo. Tất cả
những điều này đều theo nằm trên sự nhận thức của giác quan, đó là luôn luôn
phân biệt và kỳ thị. Sự việc này không thể khác đi được – Nhưng nếu một người
có chánh niệm, chính những quy ước này đưa người ta đến bất tử, ở nơi đó chúng
ta hợp nhất lại thành một. Ở nơi đấy không có "anh" hoặc
"tôi".
Wheeler: "Bất tử" - ngài sử dụng thuật
ngữ này như thế nào?
Sumedho: Nó chỉ có ý nghĩa là không sanh không
diệt. Thật sự, không có gì để nói thêm, bởi vì các từ là sanh và tử.
Wheeler: Liệu người ta có thể nói rằng "bất
tử" là đồng nghĩa với sự chấm dứt bám víu và chấp thủ?
Sumedho: Không chấp thủ đưa đến những điều kiện
chết.
Wheeler: Tôi nhận ra nó có nhiều tình huống hơn
ngoại lệ khi lệ thuộc vào một nhóm, có một khuynh hướng cảm thấy an toàn,
khuynh hướng kết tội, xem thường hoặc chê bai những người không có cùng đức tin
tôn giáo hoặc giáo điều triết lý. Làm cách nào để người ta vượt qua được cái ý
tưởng phân biệt này, tạo ra bả chất phản kháng? Làm thế nào người ta không còn
bị vướng mắc ở hình thức, liệu việc này còn ở trong sự nghiên cứu hay môi
trường thiền?
Sumedho: À, chỉ cần được giác ngộ thì sẽ giải quyết
được mọi vấn đề của anh
Wheeler: Cám ơn nhiều.
Sumedho: Người ta phải thực hiện việc tốt nhất
trong tất cả các việc này.Tu viện Chithurt là một điển hình của một nơi không
tốt nhất mà cũng không tồi tệ nhất. Nó vừa phải. Một số người sẽ sử dụng nó,
một số người không. Tôi không muốn nó trở thành quá hoàn hảo hoặc lý tưởng, bởi
vì mọi người cần có sự va chạm, bằng không, họ sẽ trở nên tự mãn hoặc buồn
chán. Cần phải cho mọi người một không gian để làm việc vì thiên hướng hoặc vấn
đề cảm xúc của họ.
Trong cuộc sống của mình tôi đã thấy rõ
cái cách mình bị vị thầy, truyền thống, và quy tắc thu hút ra sao. Nếu một
người nghiêm túc và theo dõi dukkha, sau đó bắt đầu nhận thấy được điều này
và xả bỏ nó. Đó không có nghĩa người này từ bỏ truyền thống; nó chỉ có nghĩa là
người này có thể cư xử thanh thản với nó.
Tôi thích đời sống ở tu viện. Tôi
thích mình là một nhà sư. Tôi nghĩ rằng đó là một cách sống rất đáng yêu khi
làm con người. Nhưng nếu ý thích sống ở tu viện không còn nữa, khi tới lúc, nó
sẽ chấm dứt. Nó là như thế đó. Đâu có hề gì.
Tuy thế cũng không cần phải loại bỏ lễ
xuất gia. Tôi trở nên chín chắn nhờ nó. Tuy vậy tôi chưa từng thấy một cách
sống nào tốt đẹp hơn để sống cuộc sống của một con người. Vì thế tôi sống cách
này cho tới lúc nó thay đổi. Khi đến thời điểm thay đổi nó sẽ tự mình thay đổi.
Tôi không quyết định được, "Chà, tôi chán việc này. Tôi sẽ thử làm một cái
gì khác".
Người có thể nhận thấy toàn bộ ý nghĩa
chung về cuộc sống của một nhà sư thật tuyệt vời. Nó vô hại, nó thật đáng kính
trọng; nó cũng rất hữu ích cho xã hội. Tôi biết cách sử dụng nó. Tôi có thể dạy
dỗ qua truyền thống này. Tôi có thể dạy cho mọi người cách sử dụng truyền thống
này, mà tôi nghĩ rằng biết cách dùng nó là một điều tốt. Người ta có thể học
hỏi cách dùng những quy ước thay vì chỉ chối bỏ chúng.
Nếu tôi cho anh một con dao, anh có thể sử
dụng nó với mục đích xấu hay tốt. Vấn đề là không phải con dao, phải không? Nếu
anh dùng nó để giết tôi, anh sẽ nói "con dao này xấu", phải không?
Con dao này có thể là một con dao rất tốt, một công cụ khéo và hữu ích. Điều
này giống như truyền thống Nguyên Thủy và Phật giáo Tây Tạng; sự việc là học
cách sử dụng chúng khéo léo - và điều này tùy thuộc vào anh đấy!
Người ta phải công nhận rằng những thiền
sư Á Châu đến từ một xã hội (ví dụ như Tây Tạng) nơi đây mọi điều không ít thì
nhiều đã được người ta cho là có giá trị. Họ được nuôi dưỡng trong một xã hội
nghĩ và sống theo Đạo Phật. Dù họ có lòng mộ đạo hay không, điều này không có
sự khác biệt. Tuy thế, điều này ảnh hưởng đến quan điểm của họ và thế giới.
Trong khi bạn đến từ một quốc gia mang chủ nghĩa vật chất, và nơi đó, những giá
trị - được đặt trên cơ bản tham lam và cạnh tranh, sự tin cậy và đức tin còn
nằm trong sự hiểu biết khái niệm - đã tác động đến tâm của anh. Đức tin của
chúng ta ở Hoa Kỳ nằm trong sách vở, phải không? Ở các trường đại học, ở khoa
học, ở sự hiểu biết khái niệm, ở lý lẽ hiện thực.
Wheeler: Ngài có nhận thấy rằng loại hiểu biết này
không có căn cứ phải không? Hoặc có thể nó cũng được sử dụng thích đáng?
Sumedho: Sự học hỏi cách sử dụng các sự vật như thế
đó là đúng đắn có trí tuệ. Chẳng có điều gì trên thế gian là vô giá trị. Tất cả
đều hoàn hảo. Không có bất cứ điều gì trong vũ trụ mà chúng ta phải loại ra
hoặc thêm vào. Thật sự, chẳng có điều gì sai lệch.
Người ta đang đi tìm một sự hoàn hảo, tuy
thế nó lại nằm trong sự sai sót, nơi mà mọi người lầm lạc. Nếu một người đi tìm
sự hoàn hảo nơi một vị thiền sư Phật giáo hoặc ở truyền thống Phật giáo, người
này sẽ bị vỡ mộng vì nó. Nếu một người đi tìm sự hoàn hảo ở bất cứ ai, hoặc sự
hoàn hảo nơi thân xác của một người, và những trạng thái tâm của một người...
điều này không thể đạt được! Người ta không thể buộc tâm chỉ nghĩ đến những ý
nghĩ tốt lành, hoặc luôn luôn từ bi bác ái, không có thù hận hoặc ác cảm.
Tâm giống như một tấm gương - nó phản
chiếu. Như vậy những bậc có trí tuệ biết được phản chiếu là phản chiếu, và
không phải là ngã (cái tôi). Những sự phản chiếu không
làm hư hại chiếc gương chút nào. Chiếc gương có thể phản chiếu những điều cực
kỳ xấu xa nhất nhưng không bị điều xấu xa làm dơ bẩn. Và những sự phản chiếu sẽ
thay đổi. Chúng vô thường.
Sự xấu xa nhất và dơ bẩn cũng đóng một vai
trò quan trọng. Sân hận và những điều xấu xa trong tâm của một người giống như
phân bón bốc mùi hôi hám. Nó không tốt đẹp và người ta không thích thú khi gần
nó. Tuy thế nó thật sự mang lại nhiều nguồn dinh dưỡng tốt cho rễ cây, để chúng
sẽ trổ ra nhiều cành hoa xinh đẹp. Nếu người ta có thể xem xét phân bón và biết
nó dùng cho việc gì, như vậy người ấy có thể đánh giá được giá trị của nó, thay
vì nói "Ồ, hãy đem nó đi nơi khác! Tôi không cần nó cho bất cứ điều
gì".
Ngay cả sân hận là Dhamma (Chân lý), dạy chúng ta rằng nó là vô
thường và vô ngã. Mọi việc đều đưa chúng ta đến chân lý tuyệt đối, nhờ thấy
rằng bất cứ điều gì điều sanh rồi cũng diệt. Như vậy ngay những ý tưởng xấu xa
nhất trong tâm của một người cũng như thế; nó đơn thuần là điều kiện thay đổi.
Nếu một người không cưỡng lại được hoặc buông thả, nó khởi lên từ sự rỗng không
và quay trở lại sự rỗng không. Nó hoàn hảo. Không có điều gì là sai lệch và đó
là lý do tại sao không có gì để lo sợ.
Nếu một người cố gắng suy nghĩ ra những
phương cách để thay đổi để mà thế giới sẽ thật hoàn hảo, người ta sẽ hết sức
chua xót và thất vọng. Mọi người cảm thấy rất khó chịu khi tôi nói điều này,
bởi vì họ nghĩ rằng tôi không làm gì cả. Điều gì cần phải làm, tôi sẽ làm. Điều
gì không cần làm, tôi không làm.
Chỉ duy điều này: Người ta làm điều thiện
và tránh xa điều xấu. Đó là tất cả những gì mà tôi có thể gánh vác. Tôi không
thể làm điều gì khác cho thế gian ngoài điều này. Khái niệm về thế gian sẽ thay
đổi khi trí tuệ phát sinh từ trong bản thân của chúng ta. Rồi lúc ấy chúng ta
sẽ nhìn thế giới theo bản chất thật của nó, đúng hơn là tin tưởng vào thế giới
như chúng ta nghĩ nó là như thế.
Chân lý không phải là tín đồ Phật giáo.
Nghĩa là không phải các Phật tử đều có bất cứ tuệ giác nào với chân lý. Nó chỉ
là một cách để tiến hành.
Wheeler: Ngài đề cập rằng vấn đề được đặt nặng ở tu
viện của thiền sư Ajahn Chah là sự duy trì Vinaya, giới luật của nhà sư. Có nhà
sư nào của ngài Ajahn Chah học kinh điển, chẳng hạn như Abhidhamma, có phải
thiền sư Ajahn Chah nhận thấy việc học là cần thiết, hoặc không xem trọng việc
học?
Sumedho: Tất cả các nhà sư đều phải học. Vẫn còn
các kỳ thi của chánh quyền dành cho các nhà sư, mà người ta có thể đạt tới ba
trình độ. Ngài Ajahn Chah khuyến khích các nhà sư tham dự các kỳ thi dựa trên
sự hiểu biết cơ bản về Dhamma và Vinaya. Vì thế, ngài khuyến khích các nhà sư
học nhiều vào.
Ngài Ajahn Chah sẽ gởi những nhà sư có sở
thích và năng khiếu theo học tiếng Pali ở một tu viện đặc biệt chuyên dạy ngôn
ngữ này. Tuy thế, ngài không đi lệch ra ngoài đường lối của mình trong việc
khuyến học, bởi vì ngài nhận thức rằng việc hiểu biết văn phạm Pali không phải
là điều kiện cần đưa đến giác ngộ.
Đó là một sự việc rất đặc thù. Người ta
không thể may chỉ một bộ quần áo mà vừa vặn cho tất cả mọi người. Tuy vậy,
khuôn mẫu chung được khuyến khích ở tu viện là phát triển chánh niệm của mình
trong khi an trú trong giới luật.
Wheeler: Có phải thiền sư Ajahn Chah mong muốn các
nhà sư của mình giảng dạy một mục nầy hoặc mục khác phải không?
Sumedho: Khi họ có đầy đủ khả năng, ngài đề nghị họ
bắt đầu giảng dạy.
Wheeler: Như vậy, một ngày nào đó hầu hết hoặc tất
cả các nhà sư sẽ giảng dạy?
Sumedho: Điều này tùy thuộc vào nhà sư. Một số nhà
sư không thể giảng dạy; họ không có khả năng về phương diện này - nghĩa là,
không có khả năng sư phạm. Một số vị khác hướng dẫn bằng những hình thức khác,
chỉ bằng gương sống của họ.
Wheeler: Lúc ban đầu, ngài nói rằng ngài đã gặp
nhiều khó khăn khi ở chùa Wat Pah Pong. Đó là những khó khăn? Lẽ đương nhiên,
lúc mới đầu, ngài gặp khó khăn về ngôn ngữ và tôi chắc rằng đó là một khó khăn
hơn
Sumedho: Vâng, chính là ngôn ngữ và văn hóa mới lạ.
Trong hoàn cảnh đó người ta phải từ bỏ mọi thứ mà người ta đã từng quen thuộc
trong cuộc sống của mình.
Wheeler: Ngài đã xử lý việc đó thế nào?
Sumedho: Thực tế, tôi đã hành động như vậy. Tôi
thật sự không biết diễn tả như thế nào về phương sách tôi giải quyết về vấn đề
này. Nếu một người muốn ở lại và học hỏi những điều ở nơi đây, người ấy chỉ làm
những gì cần phải làm. Tôi tìm cách thay đổi lối sống của mình cho phù hợp với
cách sống của những người ở đấy.
Các nhà sư Thái rất tử tế. Đây không phải
là nơi những ta gây khó khăn cho tôi. Luôn luôn có sự bao dung và nhân ái. Tôi
chỉ tập làm quen với tính cách khác biệt, ăn thức ăn lạ, tập nói ngôn ngữ của
họ.
Wheeler: Đôi khi, những người từ hai nền văn hóa
khác lạ gặp gỡ nhau, một hình thức kiêu ngạo về nền văn hóa của mình có thể
phát sinh từ phía này hay phía khác, hoặc cả hai. Ngài có đối mặt sự kiện này
không?
Sumedho: Vâng, đúng như vậy. Người Thái có những
cảm nghĩ giống như những người khác về nền văn hóa và xã hội của họ. Tuy vậy,
tất cả mọi người chúng tôi cùng chia xẻ một lối sống chung trong tu viện; nơi
đây không chú trọng về di sản văn hóa mà chú trọng về giáo pháp của Đức Phật.
Vì thế những khác biệt về văn hóa dường như không phải là điều lớn lao với bất
cứ ai.
Tôi sành sõi cuộc đời hơn họ rất nhiều.
Tôi đã từng đi đây đó nhiều nơi, và nói chung, biết rất nhiều điều trên thế
giới. Họ cao cả hơn tôi ở khả năng sống thật tốt đẹp và hòa hợp vào duy nhất
một truyền thống mà họ hiểu biết. Tôi thường cảm thấy mình rất ngớ ngẫn và vụng
về, giống như một người rất đần độn, bởi vì tôi không có sự phối hợp về thể
chất hoặc sự nhạy bén ở hành động mà họ có.
Wheeler: Hôm nọ, chúng ta đã trò chuyện về các
truyền thống và tập quán, và một thái độ tự mãn có thể phát sinh như thế nào
đối với sự tu tập của một người. Thường thường, nhà sư trẻ phải tuân giữ chặt
chẽ lời nguyện và giữ gìn giới luật nghiêm minh. Sau đó người ta nhận thấy mình
thật sự không đi sâu hoặc tu tập nghiêm túc. Một người có khuynh hướng trở
thành máy móc trong những hành động của mình, và có lẽ muốn khám phá chân lý,
người đó sẽ bị ngộp thở bởi sự đè nặng của sự tổ chức cơ cấu hoặc truyền thống.
Ngài có nhận thấy rằng loại suy thoái này đã diễn ra ở Wat Pah Pong không?
Sumedho: À, tôi không tìm kiếm truyền thống cho
chính bản thân tôi, bởi vì tôi có nhiều động cơ cho riêng mình, không để cho
bất cứ truyền thống nào cản trở tôi. Tuy thế tôi có thể thấy một số nhà sư
không năng động lắm. Họ chỉ trong khuôn khổ, bởi vì nó là truyền thống của họ.
Do đó, họ có khuynh hướng chìm sâu vào lối sống quen thuộc của một nhà sư.
Ngài Ajahn Chah thật sự là một chuyên viên
đưa mọi người vượt ra khỏi những tập quán bất di bất dịch. Tuy vậy ngài không thể
liên tục hoạt động như vầy. Người ta không thể mong đợi ngài làm vú em cho tất
cả các nhà sư. Tôi nghĩ rằng vào lúc ban đầu, ngài đã hoạt động rất mạnh. Tôi
nhận thấy rằng bây giờ, Ngài thực hiện điều này dễ dàng hơn nhiều và hầu như để
việc này lại cho các nhà sư phát triển. Phương pháp phải là như thế. Đây là một
phương pháp tu tập rất chính chắn. Thiền sinh không cần đến các vị thiền sư
liên tục đến khuyến khích và khuấy động. Chúng tôi tự mình thực hiện công việc
này. Tuy thế các nhà sư Thái và sư phương Tây dường như đã lún sâu vào thói
quen. Họ thường hành động như thế dù họ ở bất cứ nơi nào. Họ không có "sự
thôi thúc" trong cuộc sống của mình.
Wheeler: Tôi nghĩ rằng ngài đang chế giễu tôi ...
Krishnamurti nói: "vai trò của Guru, người thầy tinh thần, là vạch rõ con
đường. Thế là hết bổn phận. Sau đó để người ta học hỏi. Nếu vị này muốn tìm
hiểu, vị này sẽ tự mình khám phá. Nhưng nếu ngài hướng dẫn cho vị này mọi điều,
như vậy ngài đã đối xử người như một đứa bé. Không còn gì là ý nghĩa đối với
nó!" [3]
Sumedho: Đúng vậy, đúng vậy.
Wheeler: Trong vai trò của ngài là một tu viện
trưởng, bằng cách nào Ngài hướng dẫn các môn đồ của mình để ngăn ngừa việc thọ nhận
những vật có giá trị; đặc biệt trong việc thọ nhận những lễ vật cúng dường của
các thí chủ? Làm cách nào để ngài đề nghị họ ngăn chặn những sự việc trở thành
lề thói, quả thật đó là sự an toàn; cái cảm nghĩ rằng đó đúng là một cuộc sống
tốt đẹp, thoải mái?
Sumedho: À, chính xác nó không phải là một cuộc
sống thoải mái. Ở Anh quốc, vấn đề này không biến thành một thông lệ, bởi vì
không có truyền thống để mà ăn sâu vào. Nó thật mới lạ. Như vậy nó không phải
là một cảnh ngộ để người ta thật sự có thể chìm sâu vào bất cứ điều gì.
Ở Anh quốc không an toàn như ở một xứ sở
đạo Phật. Làm một nhà sư ở Anh quốc là sự mạo hiểm, sự may rủi, không được đảm
bảo. Như vậy người ta cần phải cảnh tỉnh nhiều hơn nữa, trong khi đó ở Thái
Lan, người tu đương nhiên là được bởi vì Phật giáo đã được chính thức hơn và
vững chắc ở xứ sở này.
Tất cả những gì người ta có thể làm là
khuyến khích liên tục nhắc nhở mọi người - bởi vì họ quên lãng. Nhưng họ thật
sự phát triển như thế nào là tùy thuộc vào họ. Như họ nói "Anh có thể đưa một
con ngựa xuống nước..." Và đó là tất cả những gì anh có thể thực hiện
được.
Wheeler: Tuy thế đối với một số người có thể có một
khoảng trống giữa khuynh hướng và sở thích của chính họ; và hệ tư tưởng mà họ
đang theo đuổi. Làm cách nào để nối kết khoảng trống đó?
Sumedho: Tại sao người ta phải thừa nhận một khoảng
trống giữa mọi người. Đó là giá trị thật của đời sống tu hành. Người ta phải
thừa nhận con người cần có thời gian và cơ hội để phát triển, đúng hơn là kỳ
vọng họ tạo nên những thay đổi lớn lao ngay lập tức. Một số người hiểu biết
liền lúc ấy; một số khác phải mất nhiều năm. Điều này không có nghĩa là người
ta sẽ chỉ giảng dạy cho những người hiểu ngay liền - họ không cần phải được dạy
dỗ thật nhiều!
Người ta cũng có thể cung cấp ít nhất một
nơi trong tu viện cho những người sống một đời sống tốt đẹp thay con đường
thiện . Cuối cùng điều gì đó cũng sẽ thấm vào họ. Ít ra đó là nghiệp thiện.
Người ta không làm bất cứ hành động bất thiện nào. Loại môi trường này khuyến
khích người ta làm lành tránh dữ. Đó là một môi trường đạo đức. Sự đặt nặng ở
đây là chú ý, cảnh giác và theo dõi; đối mặt với cuộc sống của mình là như mình
người ấy đang cảm nhận nó, xem xét nó, và học hỏi từ nó.
Cải cách mà một người cương quyết và quyết
tâm trong tu tập là vấn đề cá nhân. Một số người tiến bộ rất nhanh, những người
khác lại rất chậm; một số lại trung bình. Trong tu viện, người ta có thể cho
phép nhanh hoặc chậm. Sự việc không phải là người ta đang chỉ chọn lựa người
giỏi nhất, những người nhanh nhất. Sự lợi ích của việc có một cộng đồng tu tập
là có cơ hội cho nhiều người phát huy. Một vài người chẳng bao giờ giác ngộ
được nhưng ít ra họ có phát triển sự tốt đẹp trong cuộc sống của mình.
Wheeler: Như thế, ngài không cho rằng một cộng đồng
tu sĩ sẽ giống như một chỗ dựa hoặc một nơi giam cầm, ngăn chặn người ta phát
triển?
Sumedho: Không. Bất cứ cái gì cũng có thể là chỗ
dựa, là nơi giam cầm. Tất cả đều tùy thuộc vào việc người ta sử dụng hoặc nương
dựa vào nó. Nhiều người nghĩ rằng có chỗ dựa là tồi tệ. Những sự nương tựa tự
nó không chống đỡ không có gì tồi tệ. Đôi lúc chúng ta cần nương tựa.
Hãy tưởng tượng khi nói với một đứa bé sơ
sinh, "Con có đôi chân rồi. Hãy đứng dậy và bước đi! Ta sẽ không ẵm con
đứng dậy, cho con ăn hoặc làm bất cứ việc gì cho con. Bây giờ con đã sinh ra
đời. Con phải học hỏi và tự lo cho bản thân". Tuy thế đứa bé vẫn chưa sẵn
sàng. Hiểu được hoàn cảnh nầy tình huống, người ta nuôi nấng và chăm sóc bé.
Vừa lúc đứa bé biết bò, người ta không nói
rằng, "Nếu con dựa vào việc bò, con sẽ bò suốt toàn bộ cuộc đời còn lại và
không đến được bất cứ chỗ nào. Hãy đứng dậy và bước đi!" Nhưng đứa bé
không thể làm được. Nó chưa sẵn sàng. Nó vẫn chưa đủ sức mạnh.
Nó dùng chân tay của mình để bò và vẫy,
leo lên ghế, và người mẹ nắm lấy bàn tay của nó v.v..., nó đang phát triển sức
mạnh và lớn lên dần, cho tới lúc nó bước đi được bước chân đầu tiên trong cuộc
đời. Khi nó tự mình bước đi, Theo lẽ tự nhiên, nó không còn cần dùng đến những
sự nương dựa nữa. Khi đứa bé bắt đầu học đi một mình, nó bỏ đi những sự nương
tựa. Nó không còn muốn nắm bàn tay của mẹ nữa.
Trên con đường tâm linh cũng thế, đôi lúc
những sự nương tựa có chủ ý tăng thêm sức mạnh. Khi người ta đủ mạnh, người ta
bắt đầu bước đi - tự lập.
Wheeler: Ngài đã đưa ra phép loại suy về một đứa bé
đang tập bò, phát triển chầm chậm, dần dần. Một người ở trong hệ thống, chỉ
thích nghi với khuôn mẫu của nó mà không thật sự đào sâu - làm cách nào mà một
hệ thống hoặc một tổ chức có thể giúp anh ta vượt ra khỏi lối mòn mà anh ta đã
lún sâu?... À, tôi chỉ đang nói về bản thân tôi, ngài biết đấy... Đôi lúc tôi
cảm thấy cần thiết phải trốn thoát khỏi chủ định duy nhất về sự thức tỉnh, cái
mà có thể tạo thành lối sống tự mãn.
Sumedho: Chính cuộc sống là một sự thay đổi không
ngừng. Đó không phải là những cơ cấu và những điều kiện tự thay đổi. Một số nhà
sư phải từ bỏ y áo và trở về đời. Một số khác, sau nhiều năm không tìm được
điều gì cho bản thân, và tìm kiếm cái điều gì khác để làm. Tất cả những gì mà
người ta có thể yêu cầu họ làm là cố gắng sống trung thực với những ý định của
họ. Mỗi một cá nhân phải giải quyết chính cuộc đời của mình...
Nếu một ai đó cảm thấy mình đã sống đủ
cuộc đời tu hành và muốn sống theo một cách khác, điều này là hoàn toàn đúng
thôi; đó là sự lựa chọn của người đó. Nhưng người ấy nên trung thực với những ý
định của mình, tốt hơn là chỉ dùng như lời bào chữa. Điều này rất quan trọng.
Điều duy nhất không được tốt đẹp mà người ta nghe thấy được là khi một ai đó
rời bỏ tăng đoàn (giới luật tu tập), nhưng không trung thực với lý do người ấy
từ bỏ để trở lại đời thường. Một người có thể biện hộ sự ra đi của mình bằng
cách bôi bác truyền thống. Tuy thế đôi khi người ta rời bỏ cuộc sống tu tập vì
những hoài nghi chính đáng.
Wheeler: Là một tu viện trưởng, làm cách nào ngài
khuyên các đệ tử của mình có cách nhìn về những lễ nghi và nghi thức mà dường
như có thể khá xa cách với sự tu tập thực tế?
Sumedho: Riêng cá nhân tôi thích những nghi lễ.
Thực thú vị khi thực hiện chúng; chúng yên lặng. Người ta thực hiện chúng với
một nhóm người. Đó là đang thực hiện một điều thú vị, cùng với nhau và trong
một trạng thái hợp nhất. Ý định này luôn luôn tốt đẹp; tỏa ra tình nhân ái và
tụng lên những lời dạy của Đức Phật bằng tiếng Pali. Nó thường nâng cao và
truyền cảm hứng cho tâm của nhiều người. Đó là chức năng duy nhất mà tôi có thể
trình bày.
Tôi cho rằng lễ hội làm cho cuộc sống càng
tốt đẹp hơn. Nếu một người chưa bao giờ sử dụng lễ nghi và không hiểu được mục
đích của nó. Như vậy khi một người gặp gỡ một hình thức lễ nghi, người ấy có
thể phản đối, và nghĩ rằng "Tôi không thích sự việc này", hoặc
"Những lễ nghi là không đúng". Nhưng chúng không phải như vậy! Chẳng
có điều gì sai trái với lễ nghi. Chúng hoàn toàn đúng khi người ta có những sự
kiện này.
Chúng ta không đặt thành vấn đề để nói
người ta nên hay không nên có những nghi lễ. Chúng là một phần truyền thống của
chúng ta, như vậy chúng ta sử dụng chúng nếu chúng thích hợp. Nếu chúng không
thích hợp, chúng ta không sử dụng chúng. Nó là vấn đề của sự hiểu biết, hơn là
có những quan điểm về nó.
Wheeler: Ngài quan niệm như thế nào về vai trò của
một tu viện trưởng? Ngài nhận xét bản thân mình như thế nào khi mình là một
nhân vật có quyền lực?
Sumedho: À, tôi thật sự không suy nghĩ về điều này.
Tôi hành động đúng mực của một vị tu viện trưởng. Đó là bản tính biết đánh giá
phẩm hạnh và những cơ cấu tôn ti trật tư của tôi. Tôi không cảm thấy những điều
này là không thể chịu đựng được Thực sự, tôi nhận thấy (vai trò một tu viện
trưởng) là một niềm vui lớn lao. Đó thật là một chức vụ thú vị. Nó có sự bất
lợi của mình trong ý nghĩa là tôi phải nhận các thứ bị ném đến cho tôi chứ
không phải được chọn lựa.
Tuy thế tôi cũng rất thích phục vụ người
khác. Tôi thích quay trở lại và đứng số 10 trong hàng. Ở Thái Lan, điều rất tốt
đẹp là không phải một người quan trọng, không cần phải luôn luôn đứng trước mọi
người.
Tuy thế, sự tu tập của chúng tôi là tập
thích nghi dần, chứ không phải chọn lựa. Trước tiên là không dễ dàng làm một
người tu viện trưởng. Có một điều thật khó khăn đối với tôi để nhận lấy vị trí
này, bởi vì nhiều ý tưởng không tương xứng và tự hoài nghi phát sinh. Vì thế
tôi thể nhập vào nó. Tôi làm việc với những ý tưởng này, dùng làm đề mục tham
thiền của tôi đưa tới cái điểm mà ở đó vị trí này trở nên dễ dàng đối với tôi.
Tôi thích nghi dần với vị trí hơn là tin tưởng vào những ý nghĩ: "Ô, tôi
chưa sẵn sàng cho vị trí, hoặc chức vụ này, hoặc tôi không muốn làm công việc
này!" Gắn bó vào vai trò của một thầy trụ trì cũng là một điều dễ dàng để
thực hiện. Nghĩa là, tự đưa bản thân mình trở thành một người quan trọng.
Nếu một người có chánh niệm, người ấy đang
kiểm soát và theo dõi; những điều này chỉ là những tình huống đổi thay của samsara (luân hồi, cõi ta bà). Lúc này là
thầy trụ trì, lúc khác là người hầu - mọi điều đang thay đổi. Nếu một người
không có sự yêu thích hơn, như vậy người này không gặp phải sự đau khổ khi hoàn
cảnh thay đổi. Nhưng nếu một người quyết tâm không trở thành chức tu viện
trưởng hoặc giữ một địa vị có trách nhiệm, thì khi hoàn cảnh xảy ra người ấy
giả thử phải giữ địa vị nầy, ông ta sẽ đau khổ.
Về một mặt khác, nếu một ai đó muốn trở
thành một người quan trọng, nhưng chỉ ở vị trí số 10, người đó cũng đau khổ,
bởi vì cảm giác phẫn uất và ganh tị với những người trên mình. Như vậy người ta
cũng phải theo dõi điều này.
Điểm chủ yếu ở giáo pháp của Đức Phật là
phải nhận biết về khổ. Mọi người đều phải gặp khổ, như vậy tất cả chúng ta đều
phải theo dõi điều này. Sự kiện không phải là để chọn bất cứ vị trí nào ở trong
hàng là "của mình". Một người có thể lên, xuống hoặc ở lại, tùy theo thời
gian và nơi chốn.
Wheeler: Làm cách nào ngài đã tham thiền về sự
"không tương xứng này" mà ngài cảm thấy? Làm cách nào mà ngài đã đối
diện với điều đó?
Sumedho: Tôi chỉ theo dõi. Tôi chỉ lưu ý và lắng
nghe, những tình huống của tâm tôi than vãn, kêu ca tiếp tục mè nheo, "Tôi
chưa sẵn sàng..."
Wheeler: Một lần nữa, trong buổi tham thiền sáng
nay, nỗi giận hờn và phẫn uất lại nổi lên. Lần này tôi để cho nó đến tự nhiên,
theo dõi, quan sát nó... sinh rồi diệt... không đồng hóa với nó, không bám víu
vòa nó. Và khi nó đi - và chắc chắn sẽ trở lại nữa! Tất cả của sự tu tập có
phải là: sự theo dõi liên tục, kiên quyết và vững bền về sự sanh diệt của các
hiện tượng?
Sumedho: Đó chính là sự nhận thức hoặc tỉnh giác.
Wheeler: Và những chướng ngại sẽ mất dần sau một
thời gian nào đó phải không?
Sumedho: Đúng vậy. Nếu người ta không hành động
theo nó. Thói quen sẽ dần dần tàn lụi.
Wheeler: Mặc dù người ta không hành động theo phiền
não nhưng bởi vì khuynh hướng phiền não luôn khởi dậy nên hành động cũng không
phải theo đó mà ra hay sao?
Sumedho: Người ta không thể ngăn được tình trạng
làm cho ảo tưởng phát sinh trong tâm của người đó. Một trong hai hành động có
thể có là: hoặc người đó phản ứng bằng cách bị cuốn hút vào hành động hoặc kềm
chế nó.
Nếu một người có khuynh hướng kiềm chế
được sự khó chịu, thì sẽ cảm thấy tội lỗi hoặc tự sân hận. Người đó nuôi dưỡng
tâm trạng đưa ra tâm trạng đó, "Ồ, tôi không còn gì để hy vọng, ngu xuẩn,
tôi không thể làm được bất cứ điều gì đúng đắn. Tôi đang phung phí đời
mình..." Chỉ lắng nghe nó! Hãy tiếp tục nuôi dưỡng và lắng nghe nó. Người
ta nhận ra nó bằng cách khéo léo phô bày và quan sát nó. Và rồi nó sẽ biến mất.
Ngược lại người ta có khuynh hướng chỉ kềm chế nó.
Wheeler: Mặc dù ảo tưởng hoặc cảm xúc không phát
sinh vào lúc đó, bởi vì người ta biết rằng cái nào chiếm ưu thế hơn thì cái đó
sẽ gây cho người ta sự lo âu liên tục, như vậy là "nuôi dưỡng nó" đơn
giản có nghĩa là để cho nó sinh khởi?
Sumedho: Thậm chí tôi đã đi tìm kiếm nó. Khoảng 7
hoặc 8 năm trước. Tôi gặp phải một vấn đề về sự ganh tị. Tôi chán ghét sự ganh
tị. Tôi hiểu rõ rằng ganh tị là điều xấu, vì thế tôi thường cố gắng triệt tiêu
nó. Khi tình huống đó phát sinh tôi thường suy nghĩ, "Ô, không được, ganh
tị đây này. Tôi cố gắng giải quyết sự việc này ngay bây giờ. Tôi phải làm gì
đây? À, người ta lẽ ra phải có niềm vui đồng cảm với những người mà mình ganh
tị!". Do đó, tôi nghĩ rằng "Mình phải thật sự hạnh phúc với những gì
đại loại như thế. Tôi phải thật sự hoan hỉ hạnh phúc về sự thành công của anh
ta..."; nhưng trong lòng, tôi không thật sự muốn như vậy, nên tôi chỉ nói
lời đầu môi chót lưỡi. Điều này không giải quyết vấn đề. Tôi thường kềm chế nó;
tiêu diệt nó, và nó thường quay trở lại, đập mạnh vào chính tôi.
Cuối cùng, tôi nhận ra rằng vấn đề không
còn là việc ganh tị, nhưng là mối ác cảm của tôi dành cho nó. Tôi chỉ căm hận
bản thân vì có tính ganh tị. Tôi cảm thấy rằng lẽ ra tôi không nên có trạng
thái đó; tôi xấu hổ vì điều này. Khi tôi đạt được sự thấu hiểu sâu sắc này, tôi
bắt đầu nêu nó ra, suy nghĩ mọi điều khiến tôi ganh tị. Tôi tiếp tục quan sát
nó. Sau một thời gian thực hiện điều này, vấn đề không còn nữa.
Tham ái là một điều gì mà chúng ta đã từng
ham muốn, thích thú. Một người không phô bày tham ái ra để quan sát bởi vì
người ấy bị cuốn hút vào nó; người ta thật sự dễ dàng bị tham ái lôi cuốn.
Tuy thế, những cảm xúc như hờn giận, và
ganh tị là một loại cảm nhận ghê sợ đối với tôi. Tôi hoàn toàn không thích
chúng và không ham muốn chúng. Như vậy, thay vào việc xua đổi chúng đi, tôi
phải đưa chúng đến với tôi, như vậy tôi có thể nhận thức được chúng.
Tôi cố ý suy nghĩ về những kinh nghiệm
ganh tị đã qua; Tôi chỉ nêu ra tất cả những ký ức mà vấn đề ganh tị nầy đã gây
ra. Tôi không phân tích nó và tìm cách thấu hiểu nó "Tại sao?" nhưng
chỉ quan sát bản chất vô thường của nó. " Xu hướng tiến tới" này đã
dung hòa được thói quen bỏ qua mọi việc mà tôi đã có. Như thế chẳng còn vấn đề
gì nữa.
Do đó, tại sao phải cần đến trí tuệ. Khi
một người hiểu được khuynh hướng về sự yêu, ghét như thế người ấy thật sự biết
được cách tu tập. Tìm ra sự quân bình giữa lực hút (yêu) và lực đẩy (ghét) đều
xuất phát từ trí tuệ ở đây (chỉ vào trái tim của mình). Tôi chỉ đưa ra một sự
hướng dẫn để xem xét việc sử dụng. Hãy quan sát nếu nó xảy ra!
Wheeler: Các đệ tử liên hệ với ngài ra sao? Nó có
tương tự như cách liên hệ của ngài với thiền sư Ajahn Chah?
Sumedho: Các đệ tử (nhà sư) cùng sống chung hiện
nay rất tôn kính tôi. Họ là một Tăng đoàn rất tốt. Tôi đã từng gặp những đệ tử
gây cho tôi khó khăn. Nhưng người ta cũng học hỏi được từ đấy. Những nhà sư khó
tính không thích hoặc không kính trọng một người hay có thể dạy người khác quá
nhiều điều. Họ tạo ra sự bất đồng ý kiến.
Wheeler: Nhưng những điều ấy không gây ra những khó
khăn trong Tăng đoàn (Sangha) sao?
Sumedho: Vâng, chúng tôi tìm cách giải quyết những
khó khăn hơn là tạo ra những môi trường lý tưởng.
Wheeler: Làm cách nào ngài góp ý kiến cho một trong
những đệ tử của mình nếu vị này có những nỗi băn khoăn về việc tuân giữ những
giới luật nào đó? Ví dụ, nếu một trong những vị sư cảm thấy tốt hơn nên mặc
quần áo của cư sĩ thay vì mặc áo cà sa của nhà sư khi đến Luân Đôn?
Sumedho: Chúng tôi sẽ không bao giờ mặc quần áo của
người đời.
Wheeler: Như vậy, không cần thiết đến lời khuyên.
Sumedho: Mục tiêu là hướng nhà sư đến sự hiểu biết
ý định hoặc mục đích của mình, để biết rõ được mình đang làm điều gì, hơn là
bắt buộc, hoặc qui định họ.
Chúng tôi đang dùng những tập tục đặc biệt
và những truyền thống như là một tiêu chuẩn phản ánh, là một phương cách nhìn
lại bản thân. Vấn đề mọi người phải tuân theo giới luật, nhưng cố gắng gợi lên
đức hạnh con người, chịu trách nhiệm về phẩm hạnh của mình trong cộng đồng tu
sĩ và ở thế gian. Người ta có thể khiến cho mọi người tuân giữ giới luật mà
không sợ hãi. Họ lo sợ sẽ phạm giới bởi vì họ sẽ phải bị bắt gặp, bị trừng phạt
và bị làm bẻ mặt. Nhưng điều này không gợi lên tính chính trực và đức hạnh.
Về mặt khác, người ta không muốn làm cho
giới luật lỏng lẻo mà cũng không để cho bất cứ ai làm theo ý mình. Người ta cần
một sự nghiêm khắc, một tiêu chuẩn mà người ta có thể học hỏi từ đó. Nếu không
người ta thường nghĩ rằng "Ồ, y cà sa hay áo đời không có gì khác biệt ...
Ồ, ăn buổi xế thì được thôi... Ồ, mang theo tiền thì cũng tốt thôi!".
Người ta có thể hợp lý hóa bất cứ điều gì.
Có đủ lý do bào chữa cho việc phạm giới
luật mà tôi đã từng thấy. Phải làm gì nếu một gia đình bên cạnh đang sắp sửa
chết đói? Tại sao tôi không thể ăn cắp bánh mì của người giàu đem phân phát nó
cho họ? Người ta luôn luôn có một lý do chính đáng để biện minh về hành động
của mình. Như vậy đó không phải là việc hợp lý mà chúng ta đang cố gắng phát
huy, nhưng là ý nghĩa của đức hạnh và trí tuệ. Quy định họ bằng sự sợ hãi, trói
buộc họ bằng chuỗi giới luật là điều không thể thực hiện được bởi vì giới luật
không uyển chuyển và cứng nhắc đến nổi biến họ thành như những con chuột trong
mê cung.
Wheeler: Tôi thường nghĩ rằng các nhà sư Theravada
thể hiện những lời nguyện rất chính xác. Tuy vậy bây giờ tôi thấy rằng Giới
Luật (Vinaya) có thể được dùng như là một bài học trong sự phát triển chánh
niệm. Tất cả là thế đó.
Sumedho: Đúng vậy. Nó thật sự là một phương tiện
hết sức tốt đẹp.
Wheeler: Nhưng theo như ngài đã đề cập, những giới
luật có thể trở thành một kỷ luật làm loạn tinh thần.
Sumedho: Trước tiên người ta phải thích sự luyện
tập rồi. Người ta tự luyện tập. Khi một người học chơi đàn piano, thì không thể
khởi đầu với nhiều khúc nhạc khác nhau. Đầu tiên, người ấy phải học từng khúc
nhạc. Trước hết người ấy cần phát huy kỹ năng và sau đó phối hợp.
Người ấy phải làm công việc lặp đi lặp lại
giống như việc phải ngồi hàng giờ liền cho đến khi đạt được kỹ xảo. Rồi sau đó
người ấy bắt chước theo để chơi các khúc nhạc. Cuối cùng, khi kỹ năng đã được
phát triển, người ấy không phải học theo hoặc bắt chước bất cứ điều gì nữa. Đây
là điều tự nhiên. Sau đó người ấy có thể chơi nhiều thể điệu khác nhau, và nó
trở thành một nguồn vui cho mọi người lắng nghe. Nhưng nếu một người cố gắng
chơi nhiều thể điệu khác nhau trước khi người này biết đượctừng khúc nhạc, điều
này có thể làm cho mọi người cảm thấy khó chịu khi nghe.
Đó là lý do tại sao giới luật tu sĩ
(Vinaya) giống như các bài tập piano. Vào những năm đầu tiên thật chán nản.
Người ta phải nghe đi nghe lại nhiều lần: mọi việc đều phải thực hiện theo một
cung cách nào đó. Mặc dù nó trông có vẻ tiểu tiết và không thích đáng với bất
cứ điều gì lớn lao, một khi đã rành rẽ cách sử dụng, người ấy đều phải nghĩ đến
nó, cũng không thắc mắc, "Tôi nên ấn phím này hay phím kia?" Nó tự
động bởi vì người ta đã được kỹ xảo sử dụng nhạc cụ đặc biệt này rồi. Từ đó về
sau, người ta không còn lệ thuộc nó, người ta có thể sử dụng nó.
Một số nhà sư cũng giống như những người
chơi dương cầm, họ chỉ chơi đi chơi lại những khúc nhạc tiêu chuẩn bởi vì họ e
ngại rời xa tiêu chuẩn cơ bản. Họ không có sự tự tin; họ thiếu trí tuệ; họ chỉ
ở trong khuôn khổ của mình. Điểm chủ yếu của giới luật tu sĩ là không quy định
ai, trái lại, nó mang lại sự tự do hoàn toàn cho con người - không phải tự do
theo đuổi ham muốn, nhưng tự do là tự giác. Người ta chỉ có thể thực hiện điều
này nhờ có trí tuệ chứ không phải do ham muốn. Người ta không thể tự giác với
lòng ham muốn, người ta bị nó khống chế.
Vinaya là một phương cách rèn luyện thân
và khẩu; tạo cho chúng vẻ đẹp và khuôn thước, và thiết lập mối quan hệ với
những người khác. Ví dụ, nhiều người chỉ trích những giới luật về phụ nữ:
"Tại sao một nhà sư không thể đụng chạm đến người nữ?... Tại sao một nhà
sư không thể ở trong phòng với một người nữ?... Tại sao tôi không thể mời một
người phụ nữ đến đây để cùng trò chuyện riêng tư?... Điều đó đối với người nữ
như thế nào? Có phải đức Phật là một người trọng nam khinh nữ không?"
Những câu hỏi như thế thường được nêu lên. Đó là vấn đề thiết lập mối quan hệ
thích đáng để người ta có thể tu học được Dhamma.
Nếu tôi mời một người nữ đến đây trong
phòng này, mặc dù với ý nghĩ, "Tôi không còn tham dục nữa"; như thế
thì người khác thấy có được không? Nó cũng là một cách để bảo vệ người phụ nữ,
giữ cho họ khỏi bị đàm tiếu.
Hơn thế nữa, người nữ thường hay yêu các
người thầy và những nhân vật có thế lực. Đối với những nhà sư hãy còn bị những
người phụ nữ quyến rũ, phụ nữ có một sức hấp dẫn mạnh lôi cuốn họ mạnh mẽ, đặc
biệt những người phụ nữ đang bàn cãi những vấn đề riêng tư của họ. Người ta có
thể dễ dàng bị tình cảm lôi cuốn vào sự kiện đó.
Đức Phật không dạy rằng một nhà sư không
thể hướng dẫn cho phụ nữ. Ngài dạy rằng một nhà sư nên thiết lập một mối quan
hệ ở nơi mà có thể truyền dạy giáo pháp. Tôi nhận thấy điều này rất hữu ích
trong việc rèn luyện các nhà sư. Không có những vụ tai tiếng hoặc chuyện gì lôi
thôi trong tu viện của chúng tôi. Khi những người phụ nữ đến, họ biết những quy
luật và chấp nhận chúng. Do đó, chúng tôi có thể truyền dạy giáo lý mà không có
liên quan đến tình cảm và tất cả mọi vấn đề bàn ra tán vào.
Nhiều tỳ khưu ở Anh quốc, cả người Thái
lẫn người phương Tây, đã bị ô danh do bởi tình trạng dễ duôi về phụ nữ. Đó là
một mãnh lực tự nhiên. Khi tôi đến Anh quốc, tôi cũng nghĩ đây nó sẽ là một vấn
đề rắc rối. Tôi cảm thấy rằng người phụ nữ phương Tây sẽ rất ghét và phản đối
những quy tắc. Nhưng họ lại không như thế. Khi họ hiểu được những quy tắc, họ
hết sức tôn trọng chúng. Nhưng chư Ni đôi lúc quá tỉ mỉ hơn cả chúng tôi. Họ
rất thận trọng về Vinaya, bởi vì họ thật sự muốn thực hành nó đúng mực.
Trong cộng đồng tu viện của chúng tôi,
không có vấn đề ganh tị về với người nữ. Chẳng hạn như, đại đức Sucitto có một
người bạn gái hoặc ưu đãi với một trong những ni cô! Những tình trạng như thế
này, nơi có sự ganh tị phát sinh, là một vấn đề thường tình của thế gian, phải
không? Đây là một hình thức rèn luyện để tránh được những khó khăn này.
Wheeler: Ngài dạy dỗ cho mọi người đồng đều với
nhau phải không?
Sumedho: Vâng, các ni cô là một thành phần lớn của
cộng đồng tu sĩ. Họ thực hiện tất cả mọi chức năng và có cùng một hình thức rèn
luyện.
Wheeler: Ngài có cảm thấy rằng người phương Tây dễ
thích hợp trong việc tu tập chánh niệm (satipatthana) hơn là học về phân tích
tâm lý (vi diệu pháp).
Sumedho: Chánh niệm là điểm chủ yếu của Giáo Pháp
Đức Phật. Người ta không cần dành nhiều thời gian để học nó. Tôi cảm thấy không
cần thiết học cũng có thể thực hành được. Tôi không phản đối điều gì cả.
Tuy thế, một số người cảm thấy thiên về sự
uyên bác và tiến đến gần sự tu tập ở hình thức này. Tôi chỉ có có thể nói về
kinh nghiệm bản thân mình. Tôi cảm thấy sự tu tập căn bản này là đủ rồi: Tứ
Diệu Đế và Tứ niệm xứ. Tôi cần đến Vinaya và chánh niệm để hiểu biết được Giáo
Pháp của Đức Thế Tôn qua kinh nghiệm thực hành hơn là lý thuyết. Nếu không, nó
giống như việc luôn luôn xem bản đồ mà chẳng đi đâu cả.
Sự kiện là người ta không cần biết quá
nhiều. Giáo pháp thì thật đơn giản. Cho nên đối với nhiều người việc tu tập là
đủ rồi. Tuy thế tôi cũng thành thật hoài nghi liệu người ta hiểu được cái điểm
mấu chốt của sự tu tập tứ niệm xứ. Nó vẫn là một điều nhồi sọ trong khi người
ta phụ thuộc về những gì chỉ dạy phải thực hành và đã sắp xếp hết mọi điều cho
họ.
Bây giờ khi tôi đọc các bộ kinh và
Abhidhamma (vi diệu pháp), tôi có thể hiểu được. Tôi biết được những gì đang
được trình bày. Trước khi tu tập thiền, tôi đọc nhiều kinh điển nhưng không thể
hiểu chúng thật sự muốn nói gì. Khi một người đang tu tập, người ấy thật sự
thực sự nhận lấy giáo pháp của Đức Phật và thật sự quán chiếu bản thân. Khi một
người xem xét bản chất của sự khổ, người này không nhận lấy sự định nghĩa của
một ai đó nhưng đang nhận thức về kinh nghiệm ở bản thân (chỉ vào mình). Giáo
pháp của Đức Phật trở nên rõ ràng, trong sáng khi người ta suy niệm về nó.
-----
Thiền Giữa Đời Thường: Phương pháp Thiền Phật giáo nguyên thủy (Thiền Vipassana)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét