Những sự lợi ích có được trong
sự thực hành chánh niệm
1) Thanh lọc tâm
Trong kinh, Đức Phật kể những lợi ích mà ta gặt hái được
khi hành chánh niệm. Lợi ích thứ nhứt là sự thanh lọc tâm.
2) Vượt khỏi sầu đau và ta
thán
Lợi ích thứ hai mà Đức Phật kể là sự vượt khỏi sầu đau
và ta thán. Nếu muốn vượt khỏi sầu đau và ta thán, Đức Phật dạy ta
nên thực hành chánh niệm. Ở đây sầu đau là trạng thái của tâm. Ta thán là
khóc than trong đau khổ và để thổ lộ trong lời than vãn.
3) Diệt trừ sự đau đớn và
sầu bi
"Đau đớn" ở đây chỉ sự đau đớn của thể xác. "Sầu
bi" ở đây chỉ sự phiền não trong tâm, buồn phiền, giận hờn, sân hận,
ác ý. Thực hành chánh niệm giúp ta vượt qua mọi đau đớn và sầu bi và làm
chúng tan biến đi. Nhưng dù bạn không thể chiến thắng sự đau đớn hay
không thể hoàn toàn tiêu diệt nó hẳn, bạn cũng có thể sống với sự đau đớn
và chấp nhận nó nếu bạn thực hành chánh niệm. Tâm của bạn sẽ không bị phiền
nhiễu hay quấy rầy bởi cái đau nhức ở cơ thể. Khi tâm bạn không thấy bị phiền
nhiểu bởi sự đau ở thể xác, thì cái đau nầy hình như không hiện hữu. Cũng
như thế, để diệt trừ buồn phiền ưu tư, sân hận, ác ý, bạn phải thực
hành chánh niệm.
Tâm không thể nào chú ý nhiều hơn một sự việc cùng một lúc. Tâm
chỉ có thể bắt một đối tượng trong một lúc. Vì thế ta nên dùng đặc
tánh nầy của tâm để diệt trừ đau khổ buồn phiền khi ta thực hành chánh
niệm. Lấy sự giận làm thí dụ. Thí dụ ta giận ông A. Khi nào tâm ta còn để
trên ông A, cơn giận của ta sẽ tăng lên và ta sẽ càng giận thêm vì ta đang
lấy ông A làm đề mục của tâm ta. Nhưng một khi ta thay đổi đề mục từ ông A
là nguyên nhân của sự giận, sang sự giận lập tức ông A không còn hiện hữu trong
tâm ta trong giờ phút đó. Ngay trong lúc ta để tâm vào sự giận, ông A đã
biến mất trong tâm ta. Khi tâm ta để vào cái giận và khi cái nguồn gốc của
sự giận không còn hiện hữu, thì cái giận cũng sẽ biến mất luôn.
Cùng thế ấy, ta nên chăm sóc những trạng thái tâm bằng chánh niệm,
một thứ chánh niệm đơn giản nhưng mạnh mẽ hay một sự chánh niệm được đẩy mạnh.
Ta phải dùng cách đó để đương đầu với những xúc cảm trên như tham ái, sân
hận, thù ghét, buồn phiền và đau khổ. Khi có những trạng thái tâm phát
sanh, ta chỉ dùng chánh niệm và ghi nhớ. Khi tâm chánh niệm mạnh, những trạng
thái tâm kia sẽ biến mất. Vì thế nên Đức Phật dạy: "Đây là con đường
độc nhứt để vượt khỏi sự sầu não, diệt trừ đau đớn và ưu tư trên đời".
Đây là con đường độc nhứt đạt đến Đạo
cao thượng
Nghĩa của "Con Đường" hay
"Đạo"
Khi bạn đọc sách Đạo Phật, bạn sẽ gặp chữ Path
"Đạo" rất nhiều lần. Có khi chữ đó viết với chữ "p" nhỏ,
nhưng thường thì chữ đó viết với chữ hoa "P". Chữ con đường hay
Đạo là một thuật ngữ dùngđể chỉ sự phối hợp hay nhóm của tám yếu tố của
Bát chánh đạo - Chánh kiến, chánh tư duy, vân vân... phát sanh cùng lúc
với khi chứng ngộ. Cái tâm thức đi chung cùng phát sanh với những yếu tố
trên gọi là "Đạo".
Nghĩa của chữ " giác ngộ"
Chữ "giác ngộ" là một chữ khác rất quan trọng, mà nghĩa
của nó cũng rất khó hiểu. Người đời thường dùng chữ nầy một cách tự do,
nhưng chỉ một số ít mớI thật hiểu nghĩa của nó một cách trọn vẹn. Nếu không định
nghĩa thì nghĩa của nó rất mơ hồ. Chữ nầy đối với nhiều ngườI, hay đối với
nhiều tôn giáo thì mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Như thế, nghĩa của chữ
"giác ngộ" đối vớI một Phật tử rất khác đối với "giác
ngộ" của ngườI Công giáo. Cho nên khi nói đến sự giác ngộ, trước hết
ta nên định nghĩa nó cho được rõ ràng.
Đối với đạo Phật, "giác ngộ" có nghĩa là sự diệt trừ
phiền não và chứng ngộ Niết Bàn, thấy và nhận diện Niết Bàn cùng một lúc. Khi
một ngườI thực hành thiền Minh Sát và tiến bộ từ giai đoạn nầy sang giai đoạn
khác, đến tầng cao hơn do kết quả sự thực hành thiền Minh Sát, đến một lúc
khi có một loại tâm thức phát sanh trong tâm mà người ấy chưa bao giờ được
kinh nghiệm trước kia. Tâm nầy đồng sanh khởi với những tâm sở khác vô cùng
mãnh liệt đến nổi chúng có thể tiêu diệt hoàn toàn những ô nhiễm, và không để
những ô nhiễm nầy còn trở lại trong tâm. Đồng thời tâm thức nầy lấy Niết
Bàn làm đối tượng, được gọi là "Tâm Đạo".
Ngay sau "Tâm Đạo", có hai hay ba "Tâm
Quả" phát sanh. Bạn phải hiểu Vi Diệu Pháp mới có thể hiểu rõ vấn đề
nầy hoàn toàn. Giản dị mà nói, đạt đến Đạo cao thượng chỉ là một cách để
giác ngộ. Khi nào bạn đạt đến Đạo cao thượng, khi đó bạn mới giác ngộ, và
bạn mới có thể diệt trừ ô nhiễm trong tâm và lấy Niết bàn làm đối tượng.
Đây là con đường độc nhứt để chứng ngộ Niết
Bàn
Đây có cùng nghĩa với đạt đến Đạo cao thượng. Cho nên khi một
hành giả đạt đến Đạo cao thượng, và khi Tâm Đạo sanh khởi nơi tâm của
người ấy và cái tâm đó lấy Niết bàn làm đối tượng, người ấy được cho
rằng đã đạt Niết bàn. Do đó, đạt đến Đạo cao thượng và chứng ngộ
Niết bàn có cùng một nghĩa. Cho nên Đức Phật dạy rằng thực hành chánh
niệm, nghĩa là thực hành Tứ Niệm Xứ, là phương pháp độc nhứt để diệt trừ
buồn phiền và ta thán, diệt trừ đau khổ và phiền não, để đạt đến Đạo
cao thượng và chứng ngộ Niết Bàn.
Ý nghĩa của Bốn Lãnh Vực Quán Niệm
Có hai chữ quan trọng ở đây là "lãnh vực" và
"chánh niệm". Trước khi ta nói về Bốn Lãnh Vực Quán Niệm, ta nên hiểu
nghĩa của "chánh niệm" là gì. Tuy ta thực hành chánh niệm lâu năm,
đôi khi ta được hỏi: "chánh niệm" là gì, ta không thể trả lời một
cách thoả đáng.
Nghĩa của chữ "niệm" (sati)
""Chánh niệm" là chữ dịch từ chữ Pali
"sati". Bài kinh nầy gọi là kinh Niệm Xứ (Satipatthana). Ở đây
"niệm" (sati) dịch là "chánh niệm". Có lẽ không có danh từ
nào đúng hơn trong tiếng Anh để dịch chữ đó. Nghĩa đen "sati" là
"nhớ". Nhưng thật ra, chữ đó gồm nhiều nghĩa hơn là
"nhớ". Bởi vì theo nguồn gốc ngôn ngữ thì "sati" có nghĩa
là "nhớ", tuy nhiên do thông dụng thì "sati" còn hàm chứa
nhiều nghĩa hơn. "Sati" được định nghĩa trong Chú giải là
"nhớ" và đặc tánh của nó là không hời hợt, không nổi lềnh bềnh
trên bề mặt. Nếu đúng là "sati" nó không giả tạo, mà nó đi
sâu vào đối tượng. Vì thế cho nên, Sư luôn luôn nói rằng "sati"
hàm chứa nghĩa: "hay biết hoàn toàn đối tượng" hay là "hay
biết thấu triệt đối tượng". "Sati" còn có nghĩa là có chức
năng không làm mất đối tượng. Khi nào có "sati" hay chánh niệm,
ta không mất đối tượng, ta không quên đối tượng. Sati không phải là
sự hay biết hời hợt giả tạo, mà là một sự biết sâu rộng và thấu đáo một
đối tượng.
Nghĩa của "lãnh vực chánh niệm"
Bây giờ ta nên bàn về thuật ngữ "lãnh vực chánh niệm".
Nó có nghĩa là "sắp đặt" đặt nền tảng của chánh niệm hay là
"sự thiết lập chặt chẽ chánh niệm" hay "chánh niệm được
thiết lập vững chãi". Danh từ tiếng Pali satipatthana được dịch ra là
"lãnh vực của chánh niệm" nhưng thật ra nó có nghĩa là "sự sắp đặt
một chánh niệm vững mạnh" hay "thiết lập một chánh niệm vững
vàng".
Thực hành "Bốn Lãnh vực chánh niệm"
Trong kinh nầy, Đức Phật dạy rằng có bốn lãnh vực chánh niệm.
Khi bạn thực hành thiền Minh sát, bạn phải thực hành cả bốn lãnh vực chánh
niệm, nhưng bạn thực hành chúng tự do và không theo thứ tự cái nầy trước hay
cái nầy sau theo thứ tự trong kinh. Bởi vì khi bạn thực hành thiền Minh Sát,
bạn phải chánh niệm đối tượng trong giây phút hiện tại. Đối tượng ở giây
phút hiện tại có thể là một trong bốn lãnh vực - có khi đó là thân, có khi đó
là cảm thọ, có khi đó là tâm thức, có khi đó là pháp. Bạn phải niệm
những đối tượng ngay khi chúng phát sanh vì bạn không có lựa chọn. Bởi thế
có khi người ta cho rằng thiền Minh Sát là thiền không chọn lựa. Nghĩa là bạn
không lựa chọn, bạn chỉ ghi nhận những gì xảy đến với bạn. Cho nên bạn
thực hành bốn lãnh vực chánh niệm một cách không thứ tự, cái gì phát sanh ra,
bạn chỉ niệm, đó là cách hành thiền Minh Sát.
"Nầy các thầy Tỳ Khưu, ở đây vị Tỳ Khưu sống quán thân
trên thân, tinh cần, tỉnh giác (hay ý thức sáng suốt) và chánh niệm, để
chế ngự tham ưu ở đời".
Câu trên đây có nhiều nghĩa quan trọng, Sư sẽ bắt đầu phân
tách những nghĩa của nó một cách chi tiết như sau:
Bốn lãnh vực quán niệm là gì? Đó là:
- niệm thân trong thân
- niệm thọ trong thọ
- niệm tâm trong tâm
- niệm pháp trong pháp
- niệm thọ trong thọ
- niệm tâm trong tâm
- niệm pháp trong pháp
Ta phải thực hành chánh niệm như thế nào?
Trong đoạn mở đầu của kinh Đại Niệm Xứ kể trên, ta thấy Đức
Phật dạy rằng, mỗi lảnh vực chánh niệm, ta phải tinh tấn nỗ lực, phải tỉnh giác
hay ý thức sáng suốt , và phải chánh niệm để diệt trừ tham ái, khổ đau
trên đời.
"Quán thân trong thân"
Nghĩa là thầy Tỳ Khưu hay người cư sĩ thực hành chánh niệm hay
quán thân, người ấy phải thật chính xác. Người ấy quán thân chỉ ở trong thân mà
thôi, người ấy không quán cảm thọ trong thân hay là quán con người ở trong
thân, vân vân.... Để cho có một đề mục thật rõ ràng Đức Phật lập lại
những chữ "thân, thọ, tâm và Pháp" trong những câu trên. Nghĩa là Đức
Phật vô cùng chính xác trong sự chánh niệm hay quán thân, cảm thọ, tâm thức và
Pháp. Khi quán niệm thân, Ngài tinh cần, ý thức sáng suốt và chánh niệm.
Ta phải tinh cần trong sự thực hành
Danh từ tiếng Anh "ardent" - "tinh cần" không
phải chữ dịch đúng nghĩa của chữ Pali "atapi". Khi một chữ từ
ngôn ngữ nầy được dịch sang ngôn ngữ khác, thế nào cũng bị mất ít nhiều ý
nghĩa. Chữ "atapi" tiếng Pali lấy từ chữ "atapa".
"Atapa" có nghĩa là "sức nóng của mặt trời". Ta biết rằng
mặt trời có thể đốt nóng những vật cho đến khi những vật ấy trở nên héo úa
và có khi thiêu cháy.
Cùng thế ấy nỗ lực mà hành giả để vào sự hành thiền làm nóng
và đốt cháy mọi phiền não trong tâm. Người mà có "atapa" nghĩa
là tinh cần thì được gọi là "atapi, chữ "I" chỉ sự làm chủ.
Cho nên chữ "atapi" chỉ người có cố gắng trong hành thiền, không dễ
duôi, người thực sự cố gắng để chánh niệm và hiểu biết thấu đáo. Khi
đọc kinh bằng tiếng Pali và thấy chữ "atapi" ta nên hiểu chữ đó
có nghĩa thực sự như vậy. Ta phải thấy sự tinh tấn sẽ đốt cháy được phiền não.
Bây giờ bạn mới thấy tại sao khi dịch chữ "atapa" ra tiếng Anh (hay
ra tiếng Việt là "tinh cần") bạn sẽ mất đi ý niệm trên.
Ta phải để nhiều nỗ lực
Khi Đức Phật còn là một vị Bồ Tát ngồi dười cội bồ đề
hành thiền để trở thành Phật, Ngài đã phát nguyện mạnh mẽ trong tâm.
"Dù cho chỉ còn da, gân, xương, dù cho thịt và máu có khô cạn, ta quyết
không bao giờ ngưng hay bỏ bỏ mọi nỗ lực phi thường cho đến khi thành
Phật. Ta sẽ không rời khỏi chỗ ngồi nầy cho đến khi thành Phật. Ta sẽ vô
cùng cố gắng để đạt đến mục đích." Nỗ lực như thế gọi là "Chánh
Tinh Tấn".
Để có chánh tinh tấn bạn phải có nhiều nỗ lực thực sự, chớ không
phải nỗ lực hời hợt. Nỗ lực ở đây cũng là chánh tinh tấn, một trong tám chi của
Bát Chánh Đạo. Chánh tinh tấn nghĩa là sự nỗ lực để diệt trừ hay
tránh xa những bất thiện tâm và để trau dồi và gặt hái những thiện tâm.
Muốn chống lại những trạng thái tâm bất thiện để diệt trừ những điều xấu,
bạn cần có nỗ lực. Nếu bạn không nỗ lực, bạn không thể chống lại điều bất
thiện. Cùng thế đó, bạn cần có sự cố gắng thật sự, mạnh mẽ để thực hánh
thiền Tứ Niệm Xứ.
Tỉnh giác hay ý thức sáng suốt
Danh từ kế đó là "tỉnh giác". Tỉnh giác có nghĩa là
"thấy rõ ràng". Đối tượng nào mà hành giả để tâm niệm, vị
ấy thấy thật rõ ràng. "Rõ ràng" có nghĩa là gì? Nghĩa là hành giả
thấy thấu đáo thông suối, thấy với trí tuệ. Khi hành giả niệm hơi thở, vị
ấy thấy hơi thở rõ ràng. Vị ấy thấy hơi thở vào rõ ràng phân biệt với hơi thở
ra, và hơi thở ra thật rõ ràng phân biệt với hơi thở vào. Hành giả cũng thấy
hơi thở phát sanh và diệt. Hành giả trong thời gian nầy chỉ thấy có hơi thở và
sự biết hơi thở và không có gì khác mà thường được cho là con người hay
một cá nhân. Sự hiểu biết đó gọi là "tỉnh giác" hay ý thức sáng
suốt.
Khi bạn có sự tỉnh giác về một việc gì, bạn biết việc ấy và những
trạng thái của nó. Cũng theo giáo pháp của Đức Phật, bạn biết rằng chỉ có
vật được quan sát và cái tâm quan sát vật ấy, ngoài ra không có gì gọi là một
người, hay một cá nhân, đàn ông, đàn bà. Nhìn sự vật như thế ấy được
gọi là tỉnh giác. Sự tỉnh giác nầy sẽ đến với bạn sau một thời gian thực
tập, không phải đến ngay khi bạn mới bắt đầu hành thiền.
Khi mới bắt đầu hành thiền bạn có thể không thấy hơi thở rõ
ràng. Có khi những hơi thở lẫn lộn và không rõ ràng. Nhưng từ từ, với sự tìến
triển của tâm định và thực hành, bạn sẽ thấy đối tượng càng ngày càng
rõ thêm luôn cả sự sanh và diệt của hơi thở, vân vân.. .Như thế, sự tỉnh giác
nầy xảy ra không phải ngay lúc đầu, nhưng sau một thời gian bạn có kinh
nghiệm.
Muốn có sự tỉnh giác phát sanh, ta cần một yếu tố nữa, tuy trong
kinh không nói tới. Ta cần có tâmđịnh. Nếu không có tâm định, tỉnh giác sẽ
không thể phát sanh.
Ta cần phải phát triển tâm định
Tâm định là gì? Tâm định là một trạng thái tâm hay một
yếu tố của tâm, để giữ những chi của tâm nằm trong đề mục và không để
chúng chạy sang những đề mục khác. Tâm định thường được diễn tả là một thứ tâm
có thể ở trên đề mục một thời gian khá lâu. Lấy hơi thở làm đề mục để
làm thí dụ, tâmđịnh của bạn luôn luôn để trên hơi thở và tâm bạn không chạy đi
nơi khác. Luôn luôn tâm định giữ tâm và những yếu tố của tâm chung lại nhau
trên đề mục. Sự định tâm nầy rất cần thiết cho sự tĩnh giác phát sanh.
Không có tâm định bạn không hy vọng xuyên thấu được sự vật, và cũng không
hy vọng có sự tỉnh giác.
Khi ta đạt được tâm định, tâm của ta lắng xuống và trở nên
vắng lặng. Đây là lúc ta bắt đầu thấy rõ sự vật. Giống như nước dơ
hay nước bùn trong một ao hồ. Trước tiên, khi có đất cát dơ hay bùn sình
trong nước, ta sẽ không thấy đáy của ao hồ qua mặt nước. Nhưng khi đất cát
dơ hay bùn sìnhđược lắng đọng xuống và mặt nước trở nên trong ta mới có thể
thấy xuyên qua nước. Cùng thế đó, tâm ta cũng như nước bùn hay nước dơ tại
vì nó chứa đồ dơ bẩn hay là những ô nhiễm. Khi nào tâm ta còn bị nhiễm độc
bởi những ô nhiễm, ta không thể thấy sự vật một cách rõ ràng. Ta phải đè
nén hay để những ô nhiễm của tâm lắng đọng xuống trước khi ta có thể thấy
sự vật một cách rõ ràng. Những ô nhiễm nầy gọi là những chướng ngại trong tâm.
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng
ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở
nên rõ ràng trong sáng. Chỉ có khi đó tỉnh giác hay sự hiểu biết thật sự
của mọi sự vật sẽ phát sanh.
Tuy rằng tâm định không được nêu lên trong kinh Đại Niệm
Xứ, ta nên hiểu rằng sự cần thiết của tâm định được hàm chứa bởi vì nếu
không có tâm định ta sẽ không thể có sự tỉnh giác phát sanh. Cho một thí
dụ giãn dị sau đây. Một người thợ săn đang đuổi theo một con nai. Người ấy
thấy một tảng đá bằng phẳng và người ấy thấy dấu chân ở hai nơi đối diện
nhau của tảng đá, mà không phải ở trên mặt hay xung quanh tảng đá. Theo sự
nhận xét nầy, người ấy suy diễn rằng con nai phải phóng ngang qua bề mặt trên
của tảng đá để đi từ bên nầy sang bên kia. Nghĩa là người ấy thấy phần đầu,
và người ấy thấy phần cuối và người ấy suy diễn phần giữa, nghĩa là, con nai
phải phóng ngang qua tảng đá. Tương tợ như vậy, chánh niệm ở đoạn đầu và
tỉnh giác ở phần cuối. Phần giữa phải là tâmđịnh vì nếu không có tâm định,
sẽ không có tỉnh giác.
Bốn trạng thái tâm căn bản cần thiết
Có bao nhiêu phần tử của tâm mà ta đã nói đến? Ta có bốn
- và chúng kết hợp thành bốn trạng thái tâm rất căn bản cần thiết trong sự thực
hành thiền chánh niệm. Thứ nhứt là tinh cần, thứ hai là tỉnh giác, thứ ba là
tâm định, và thứ tư là chánh niệm. Bốn trạng thái tâm nầy là những phần tử
cần thiết của sự thực hành thiền. Khi ta thực hành thiền, bốn phần tử của tâm
nầy phải làm việc chung và hòa hợp với nhau. Nhưng còn một tâm khác mà không được
nêu lên trong kinh, đó là đức tin.
Ta cần có đức tin
Đức tin hay sự tin tưởng cũng là một yếu tố quan trọng bởi vì nếu
ta không có sự tin tưởng nơi phương pháp dạy của Đức Phật, ta sẽ không áp
dụng thực hành. Nếu không có đức tin, sẽ không có sự thành công trong bất
cứ việc làm gí. Trong Phật giáo, ta không có đức tin mù quáng. Đó
không có nghĩa là ta không có đức tin. Ta có đức tin hay sự tin tưởng nơi
Đức Phật và giáo lý của Ngài. Ta tin tưởng rằng chú tâm quán niệm những đề
mục trong Tứ Niệm Xứ ta sẽ thấy đặc tánh thật của những sự vật nầy- là vô
thường, và nó dẩn đến đau khổ và chúng vô ngã.
Đức tin cũng là một phần của sự thực tập thiền tuy nó không tích
cực hoạt động khi thiền hay khi thực tập chánh niệm, nó vẫn hiện diện và
làm việc hòa hợp với những yếu tố tâm khác. Cho nên nếu ta thêm yếu tố đức
tin vào bốn yếu tố mà ta bàn tới lúc đầu, bây giờ ta có năm yếu tố và
chúng được gọi là Ngũ Căn. Tiếng Pali gọi là Indriyas. Các thiền sư thường
thích nói về Ngũ căn nầy. Năm yếu tố nầy phải làm việc cùng một lúc và hòa hợp
với nhau nếu ta muốn có được một sự thưc hành tốtđẹp. Nếu chúng không làm
việc hòa hợp nhau thì ta mất thiền.
Thăng bằng giữa tinh tấn và định
Khi ta thực hành thiền sự thăng bằng giữa tinh tấn và định
rất quan trọng. Nếu chúng không thăng bằng, nghĩa là, nếu một trong hai cái quá
nhiều, ta sẽ kinh nghiệm sự khó khăn trong khi hành thiền. Ta phải nỗ lực cho
vừa đủ, không nhiều lắm và cũng không ít lắm. Nhiều khi ta nổ lực nhiều
quá vì ta nóng lòng muốn đạt được điều gì. Kết quả là ta mất thăng bằng.
Thế nên, quá nhiều tinh tấn khôngđem lợi gì cho ta. Ngược lại, việc gì xảy ra
khi ta nỗ lực ít ? Ta sẽ trở nên buồn ngủ, lười biếng và ta không thể chú tâm
và không thể hành thiền được. Cho nên ta tinh tấn vừa đủ không nhiều
quá và cũng không ít quá. Khi có quá nhiều tinh tấn thì định tâm không đủ.
Nếu bạn để quá ít tinh tấn, thì sựđịnh tâm lại không đủ.
Giả thử như bạn hành thiền và bạn được định tâm tốt. Sau khi
được định tâm tốt, bạn sẽ giảm bớt nỗ lực, bạn sẽ trở nên lười biếng hay buồn
ngủ. Khi việc nầy xảy ra, bạn phải cố gắng nhiều hơn và chú tâm nhiều hơn trong
sự hành thiền. Nhiều khi bạn phải chú tâm đến nhiều đề mục khác, chú tâm
đến mỗi đề mục mỗi lần riêng biệt trong sự hành thiền. Như vậy, tinh tấn và định
tâm phải thăng bằng để cho ta hành thiền tốt đẹp và có sự tỉnh giác.
Có khi, bạn đang hành thiền có tâm định tốt, thình lình
bạn mất đi sự định tâm. Tại sao? Một trong những lý do có thể là bạn để
quá nhiều tinh tấn. Do sự mong muốn để cho sự hành thiền tốt hơn, ta có lẽ để
quá nhiều sự tinh tấn. Kết quả là ngược lại sự mong muốn của ta. Có khi trong
khi hành thiền bạn có được tâm định tốt và mặc dù tâm định tốt, bạn
cảm thấy buồn ngủ hay ngủ gật. Tại sao vậy? Có thể là bạn có quá nhiều tâm định.
Nếu có quá nhiều định tâm, bạn nên giảm bớt sự định tâm và tăng thêm sự
tinh tấn.
Như vậy, hành thiền không phải dễ. Sư không muốn làm bạn nãn lòng
chớ thật sự hành thiền không phải dễ. Nó rất tinh tế. Chỉ một chút mất thăng
bằng của tâm cũng có thể phá sự định tâm mà bạn đã công phu bồi đấp
với nhiều nỗ lực. Cho nên, năm trạng thái tâm kể trên phải làm việc song song
và hòa hợp với nhau. Hành thiền cũng giống như một cái máy. Có nhiều bộ phận
trong một cái máy, và mỗi bộ phận phải làm việc đúng và đồng ăn khớp,
hòa hợp với nhau. Nếu một bộ phận không chạy thì cả cái máy sẽ không chạy. Cùng
thế ấy nếu một yếu tố trong tâm không làm việc đúng thì cả sự hành thiền
sẽ bị mất đi sự thăng bằng. Thế cho nên, mỗi một trạng thái tâm trong ngũ
căn phải làm việc đúng và hòa hợp với những trạng thái tâm kia.
Giá trị của chánh niệm
Bây giờ đây ta nên suy xét một cách nghiêm túc về giá trị của
chánh niệm. Chánh niệm là một yếu tố tâm điều hành. Chính chánh niệm giữ
cho sự tinh tấn không quá độ, chánh niệm cũng giúp sự định tâm không quá
độ vân vân.. Vì vậy chánh niệm là một yếu tố điều hành trong ngũ căn trong
sự hành thiền. Vì thế cho nên chánh niệm được cho là rất cần thiết. Không
bao giờ nói rằng có quá nhiều chánh niệm. Chánh niệm vô cùng cần thiết trong
mọi lúc giống như muối dùng để nêm nếm đồ ăn, và giống như ông quan
lớn làm tất cả những nhiệm vụ của một ông vua. Tuy chánh niệm là một yếu tố
quan trọng trong ngũ căn nhưng mỗi yếu tố kia đều quan trọng và chúng phải làm
việc đồng nhứt hóa hợp và thăng bằng với những yếu tố kia.
Ái dục
Vượt khỏi tham ái và sân hận trên đời
Khi ngũ căn làm việc thăng bằng và hành giả có được sự tỉnh
giác, vậy kết quả là gì? Kết quả là sự vượt khỏi tham ái và sân hận trên đời.
Đó chính là kết quả mà hành giả có được khi có sự tỉnh giác của sự tu tập
chánh niệm. Ở đây khi dịch ra tiếng Anh, có một sự thiếu sót về ý nghĩa. Thường
thìđược dịch là "đã được vượt khỏi" hay "đã được
vứt bỏ" hay "đã được chế ngự" tham ái và sầu đau
trên đời. Thực hành thiền để làm gì? Thực hành chánh niệm để làm
gì? Thưc hành thiền để vượt khỏi tham ái và sầu đau ở trên đời.
Tham ái nghĩa là sự bám víu, và sầu đau nghĩa là ác ý hay sân hận. Như
thế, thực hành thiền Minh Sát hay thiền Tứ Niệm Xứ là để vượt ra khỏi tham
ái và sầu đau. Nếu ta đã đạt được mục đích nầy rồi thì ta đâu
cần thực tập thiền nữa. Như thế, ở đây ta nên dịch câu đó như thế nầy
"đang vượt khỏi tham ái và sân hận (cùng lúc đang phát
sanh)", chớ không phải "đã được vượt khỏi tham ái và sân
hận." Có nghĩa là hành giả đang vượt khỏi tham ái và sân
hận khi hành giả đang hành chánh niệm. Sư muốn các bạn nên chú
ý đến điểm nầy. (Ở đây nên giảng nghĩa văn phạm tiếng Pali cho được rõ
ràng hơn, nhưng vì quá dài dòng cho nên Sư phải bỏ qua ở đây).
Vượt khỏi tham ái và sân hận ở đời có nghĩa là tránh xa tham
lam hay bám víu hay sân hận, hay ác tâm đối với đối tượng mà hành giả đang
quan sát niệm. "Trên thế gian" nghĩa là thế giới của thân, cảm thọ
vân vân.. đối với đối tượng. Khi ta thấy một vật, và ta trở nên bám víu
vào vật ấy, Và nếu ta kết luận rằng vật ấy đẹp, hay tốt, ta sẽ bám víu vào
vật ấy. Ngược lại, ta có thể phát sự sân hận hay oán ghét vân, vân .. về vật đó
nếu ta cho đó là xấu xa hay ghê tỡm. Cho nên những phiền não trong tâm có thể
phát sanh trong tâm khi ta kinh nghiệm một việc gì.
Nghĩa sâu rộng của "ái dục"
Khi Đức Phật dạy rằng "vượt khỏi tham ái và sân hận trên đời"
có nghĩa là hành giả có thể phòng ngừa không cho tham ái và sân hận phát sanh đối
với vật mà hành giả đang quan sát.
Ở đây tham ái hay ái dục có nghĩa là gồm tất cả những thứ bám
víu, tham lam, ái dục, và những trạng thái tâm tương tợ như vậy, và "sầu đau"
có nghĩa sầu não, sân hận, ganh ghét, đau buồn, sầu khổ, tất cả đều bao
gồm trong nghĩa của sân hận. Đây là ba nguồn gốc của tâm bất thiện, đó là
tham, sân , và si. Trong ba tâm bất thiện đó, có hai tâm được kể ra đây.
Tham ái thực ra là tâm đầu tiên, là sự bám víu. Tiếng Pali gọi là
"lobha", tâm thứ hai được gọi là "dosa". Cho nên,
"tham ái" có nghĩa bao gồm trong "lobha" và sân hận có
nghĩa bao gồm trong "dosa". Si, gọi là "moha" tiếng Pali
không có được gồm chung ở đây, bởi vì moha "si" thật rất khó để
ngăn ngừa và tiêu diệt. Vì thế cho nên tại sao Đức Phật dạy các vị Tỳ Khưu
nên nỗ lực cố gắng chánh niệm để phát sanh tâm định và tâm tỉnh giác khi
hành giả quán niệm để hành giả có thể tránh xa sự tham ái và ngăn ngừa sân
hận không cho phát sanh. Phương pháp nầy cũng được áp dụng khi hành giả quán
niệm tho, tâm và Pháp.
Bảo vệ chống lại với tâm ô nhiễm
Để ngăn ngừa không cho những tâm ô nhiễm phát sanh, ta cần có
phương cách để bảo vệ. Cách bảo vệ nầy chính là chánh niệm. Khi ta chánh niệm
thì những ô nhiễm đó không có cơ hội để phát sanh trong tâm ta. Khi ta
chánh niệm, khi ta tỉnh giác, và khi ta thấy sự vật một cách rõ ràng, ta biết
rằng chúng sẽ đến và đi và chúng vô thường. Ta cũng hiểu rõ rằng ta
không nên bám víu vào chúng. Cho nên ta có thể tránh khỏi sự tham ái hay bám
víu hay sân hận đối với vật ấy do sự thực hành chánh niệm.
Khi ta nói "vượt khỏi" hay "diệt trừ", thật ra
ta đang tránh hay ngăn ngừa không để ô nhiễm phát sanh. Đó không có nghĩa
là ta diệt trừ hay vượt khỏi ô nhiễm sau khi chúng phát sanh. Nghĩa thật của nó
là ngăn ngừa tham ái và sân hận không cho chúng phát sanh ở trong tâm ta. Nếu
ta không chánh niệm trên đối tượng đó, thì chắc chắn tham ái hoặc sân hận
sẽ phát sanh. Những tâm ấy có thể phát sanh, nhưng nếu ta chánh niệm, ta có thể
ngăn ngừa không cho chúng phát sanh. Ngăn ngừa không để chúng phát sanh trong
tâm là ý nghĩa của câu "vượt khỏi ô nhiễm". (Nhưng nếu chúng phát
sanh, thì ta lại phải dùng chúng là đề mục của chánh niệm để diệt trừ
chúng).
Khi ta nói đến giác ngộ, ta thường dùng đến chữ
"trong giây phút giác ngộ" những ô nhiễm sẽ được tiêu diệt. Những tâm
ô nhiễm nào được tiêu diệt trong lúc đó? Hiện tại, quá khứ hay tương
lai? Quá khứ thì đã qua, ta không cần làm gì cả để mà tiêu diệt
chúng. Còn tương lai, những ô nhiễm chưa phát sanh, ta không làm gì được
cả. Còn hiện tại? Nếu ô nhiễm có mặt, thì sẽ không có giác ngộ. Tại sao? Bởi vì
chứng ngộ là một tâm trong sạch và ô nhiễm là tâm không trong sạch. Tâm trong
sạch và tâm không trong sạch không cùng hiện hữu. Chúng không hiện diện chung.
Cho nên những ô nhiễm mà nói là được tiêu diệt trong lúc giác ngộ không phải
ở quá khứ, tương lai hay trong hiện tại.
Những ô nhiễm nào được tiêu
diệt?
Thật ra nói cho cùng thì những ô nhiễm bị tiêu diệt không phải gọi
là ô nhiễm, hay kilesas trong tiếng Pali. Chúng được gọi là "ngủ
ngầm" hay anusayas trong tiếng Pali. Chữ "anusayas" nghĩa là có
tiềm năng để phát sanh. Cái mà tâm giác ngộ sẽ tiêu diệt đó chính là cái
tiềm năng (ngũ ngầm) đó. Thí dụ như hút thuốc lá. Giả thử như bạn là một người
hút thuốc lá. Ngay bây giờ bạn không có hút thuốc lá. Giả thử Sư hỏi bạn
"Bạn có hút thuốc lá?" và bạn trả lời rằng "Dạ ,tôi có
hút". Đó có nghĩa là bạn đã có hút thuốc lá trong quá khứ, và
bạn sẽ hút thuốc lá trong tương lai. Tóm lại là bạn không có bỏ hút thuốc. Thế
cho nên tuy rằng bạn không hút thuốc lá ngay trong lúc nầy, bạn trả lời
"Dạ, tôi có hút thuốc ".
Cùng thế ấy, ngay trong lúc bây giờ, Sư nói rằng Sư không có ô
nhiễm trong tâm và bạn cũng không có ô nhiễm trong tâm bạn. Nhưng sau buổi nói
chuyện, bạn đi ra và bạn đạp phải một vật nhọn hay là có người nào đó
xô đẩy bạn và bạn nổi giận. Sự ô nhiễm nầy được dịp sanh khởi bởi vì nó có điều
kiện để sanh khởi. Chính cái "tiềm năng phát sanh" nầy mới là cái bị
tiêu diệt bởi giác ngộ.
Làm thế nào ngăn ngừa không để ô nhiễm phát sanh?
Những ô nhiễm mà nói là được diệt trừ trong lúc giác ngộ
không gì hơn là những tiềm năng ngủ ngầm có thể phát sanh. Khi chúng phát sanh
thì chúng đã hiện diện rồi. Cùng thế đó, nói rằng vượt khỏi tham ái
và sân hận nghĩa là tránh hay ngăn ngừa không để chúng phát sanh trong tâm.
Bằng cách nào? Bằng cách thực hành chánh niệm. Nếu ta tinh tấn, nếu ta áp dụng
chánh niệm và nếu ta có tâmđịnh, ta sẽ thấy sự vật rõ ràng. Nếu ta thấy sự vật
rõ ràng, thì sẽ không có cơ hội để cho tâm ô nhiễm phát sanh. Như vậy ta
nói rằng thực hành thiền Minh Sát hay thực hành chánh niệm để diệt trừ
phiền não.
Sự diệt trừ ô nhiễm nầy có phải là vĩnh viễn hay
không?
Sự diệt trừ ô nhiễm nầy chỉ có tánh cách tạm thời, vì nó chỉ thay
thế tạm thời thôi. Chỉ một phút giây sau là chúng trở lại. Nó chỉ kéo dài một
thời gian ngắn thôi. Sự diệt trừ nầy được gọi là "diệt trừ bằng sự
thay thế". Có nghĩa là bạn trừ bỏ những tâm bất thiện bằng sự thay thế
những tâm thiện. Khi có sự hiện diện của tâm thiện thì sẽ không có sự hiện diện
của tâm bất thiện. Bạn đặt những tâm thiện ở một chỗ trong tâm thì những
tâm bất thiện không có chổ để phát sanh. Sự diệt trừ nầy gọi là diệt trừ ô
nhiễm bằng sự thay thế. Nhưng trạng thái tâm đó chỉ tồn tại trong một thời
gian ngắn ở trong tâm của hầu hết hành giả. Chỉ một lúc sau ô nhiễm lại trở
lại. Khi thực hành thiền Minh Sát, tham ái và sân hận được tiêu diệt bằng
cách đó. Khi bạn ra khỏi thiền và bạn gặp những điều kiện thuận lợi
cho những ô nhiễm phát sanh, chúng sẽ phát sanh trở lại.
Diệt trừ ô nhiễm tạm thời
Có một sự diệt trừ ô nhiễm gọi là " diệt trừ tạm thời".
Sự diệt trừ nầy bằng cách đẩy lui chúng đi. Khi bạn đẩy lui một vật gì
sang một bên, nó sẽ ở đó một thời gian hay nó không trở lại ngay, giống
như cây nổi trôi trên mặt nước. Nếu bạn đẩy gạt nó đi nó sẽ đứng yên ở đó
một thời gian, nhưng từ từ nó cũng sẽ trở lại. Sự diệt trừ như vậy được gọi là
"diệt trừ tạm thời" hay diệt trừ bằng sự đẩy gạt nó qua một bên.
Trạng thái tâm nầy được đạt tới khi hánh giả đang trong trạng thái tâm
"phỉ lạc" trong thiền. Khi một hành giả có được phỉ lạc hay kinh
nghiệm phỉ lạc, hành giả nầy có thể đẩy lui ô nhiễm trong tâm trong một
thời gian. Chúng có thể sẽ không trở lại trong tâm hành giả trọn ngày, hay có
thể cả tuần hay cả tháng, nhưng sau cùng chúng cũng sẽ trở lại trong tâm hành
giả.
Diệt trừ ô nhiễm toàn diện
Sự diệt trừ ô nhiễm thứ ba gọi là "diệt trừ toàn diện".
Tiếng Pali gọi là "samuccheda" = cắt đứt, nghĩa là diệt trừ bằng
sự cắt đứt. Nếu bạn chặt đứt rễ của một cây, nó sẽ không mọc trở lại. Như
vậy sự diệt trừ toàn diện gọi là sự diệt trừ bằng cách cắt đứt và sự cắt đứt
ô nhiễm toàn diện nầy được đạt đến trong lúc chứng ngộ. Những ô nhiễm được
diệt trừ trong lúc chứng ngộ là toàn diện và chúng sẽ không bao giờ trở lại
trong tâm hành giả.
Người nào đã diệt trừ được mọi phiền não?
Chỉ có A la Hán là ngườI hoàn toàn diệt trừ những ô nhiễm. Ngài
không còn bám víu, không còn sân hận, không còn ngã mạn, không còn ganh tị hay
những trạng thái tâm bất thiện nào khác. Cả những khi các Ngài bị thách đố,
các Ngài cũng không nổi giận. Cả những khi các Ngài nhìn thấy một vật gì hấp
dẩn hay tốt đẹp, các Ngài cũng không cảm thấy bị bám víu hay mong muốn vật
ấy. Những bậc nầy đã hoàn toàn tiêu diệt ô nhiễm bằng cách hoàn toàn chặt đứt
mọi ô nhiễm trong tâm các Ngài.
Diệt trừ ô nhiễm tạm thời bằng thiền Minh Sát
Những sự vật mà ta gặp phải cũng có thể gây ra sự tham ái hay sân
hận trong tâm ta. Nếu ta không chánh niệm về vật đó, ta sẽ phát sanh bám
víu hay sân hận đối với vật ấy. Việc nầy hay xẩy ra cho phần đông chúng ta.
Nếu bạn hành thiền Minh Sát tốt và bạn đã có kinh nghiệm tránh được
tham ái và sân hận đối với vật mà bạn quan sát, bạn sẽ thấy rằng bạn cũng
có thể ngăn ngừa không cho phát sanh cả những vật bạn không có quan sát. Đó
được gọi là "tạm thời diệt trừ ô nhiễm bằng thiền Minh Sát".
Thiền Minh Sát có thể đạt được hai sự tiêu diệt ô nhiễm đó
là sự diệt trừ từng chập hay sát na diệt trừ, và diệt trừ tạm thời. Nhưng thiền
Minh Sát không thể đạt được sự tiêu diệt ô nhiễm thứ ba đó là sự diệt
trừ toàn diện; sự diệt trừ nầy chỉ được thực hiện bằng sự chứng ngộ hay
chứng Đạo.
Nhiều khi hành giả nghĩ rằng nếu họ không chú tâm trên đề mục
chánh, thì họ không thực sự hành thiền. Nhiều khi họ nói rằng: "à, ta đã để
thì giờ hay phí thì giờ theo dõi tâm đi chỗ nọ chỗ kia mà ta không để
nhiều thì giờ để niệm đề mục chánh." Bất kỳ bạn niệm đề mục chánh hay
đề mục phụ, khi nào bạn có được chánh niệm là bạn thiền đúng rồi. Bạn
đang thực sự hành thiền và thực tập thiền Minh Sát. Điều quan trọng trong
thiền Minh Sát thứ nhứt là sự chánh niệm của đề mục trong giây phút hiện
tại. Có khi bạn có thể quên chánh niệm và cái quên nầy sẽ trở nên đề mục
thiền của bạn. Bây giờ bạn phải chánh niệm cái "quên" và đem tâm
trở về đề mục thiền của bạn.
Chánh niệm dẫn đến sự
chứng ngộ "vô thường"
Bạn phải luôn luôn chánh nìệm. Nếu bạn có thể giữ chánh niệm rốt
ráo, bạn sẽ có tiến bộ rất nhanh và bạn sẽ bắt đầu thấy đặc tánh thật của
sự vật. Chỉ có cách đó bạn mới bắt đầu thấy sự vật sanh và diệt. Khi bạn thấy
chúng sanh và diệt, bạn cũng sẽ thấy chúng vô thường. Khi bạn thấy chúng vô
thường, bạn cũng sẽ thấy đặc tánh khổ và đặc tánh vô ngã của chúng.
Bạn sẽ nhận thức rằng bạn không điểu khiển được chúng và chúng sanh và
diệt theo ý chí tự do của chúng. Cho nên khi bạn có thể thấy sự vật là như thế
ấy, bạn mới có thể thấy ba đặc tánh chung của tất cả các pháp hữu vi, đó
là tinh yếu của thiền Minh Sát. Nếu bạn hành thiền Minh Sát bạn phải thấy ba đặc
tánh đó bởi vì chữ "Vipassana" có nghĩa là "thấy sự vật bằng
nhiều cách", và thấy sự vật bằng nhiều cách có nghĩa là thấy dưới ánh sáng
của vô thường, khổ và vô ngã.
Điều quan trọng của thiền Minh Sát là phải thấy ba đặc tánh
đó, và để được thấy ba đặc tánh đó, ta cần phải nhìn quan sát và chú tâm
vào trong đối tượng ngay trong giây phút hiện tại. Muốn chú tâm vào đối
tượng trong giây phút hiện tại, ta cần nhiều nỗ lực. Không có sự nỗ lực thì sẽ
không đạt được những việc gì có giá trị. Vì thế cho nên Đức Phật dạy
rằng phải "tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm". Khi ta làm tròn đủ
những điều kiện trên "tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm" và có định
tâm, ta mới có thể vượt khỏi tham ái và sân hận đối với sự vật mà ta quan
sát.
Lời nhắn nhủ
Trên đây Sư đã giảng cho bạn một cách ngắn gọn bài kinh rất
quan trọng của Đức Phật, đó là kinhĐại Niệm Xứ, Maha Satipatthana. Nếu bạn
hiểu được những gì Sư đã giảng ở trên, Sư nghĩ rằng bạn đã nắm vững
thế nào là sự thực hánh chánh niệm. Bạn cũng hiểu là phương pháp hành thiền như
thế nào. Điều quan trọng là bạn nên theo những lời chỉ dẫn với sự tinh tấn
và áp dụng chánh niệm để bạn được thấy sự vật một cách thật rõ ràng.
Làm được
như vậy, Sư cầu chúc cho tất cả quí vị được vượt khỏi mọi tham ái và sân hận ở đời.
-------------------------------------
Thiền Giữa Đời Thường: Phương pháp
Thiền Phật giáo nguyên thủy (Thiền Vipassana)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét