Thiền Sư U Silananda
Dịch Việt: TNDT - Hiệu đính: NK & BA
Dịch Việt: TNDT - Hiệu đính: NK & BA
Là
những hành giả thiền Quán, quý vị cần phải hiểu rõ ràng và chính xác sự khác
biệt giữa Khái niệm và Thực tại, vì chỉ một trong hai điều này là đối tượng của
thiền Minh sát (Vipassana).
Khi hành thiền Quán, thiền sinh cần
phải chú tâm ghi nhận bất cứ đối tượng nào đang sanh khởi vànổi bật trong
giây phút hiện tại. Trong ngữ cảnh nầy, từ 'bất cứ' có nghĩa là gì? Ðó là bất
cứ những gì thuộc Sự thật Tuyệt đối, hay Chân đế. Nói một cách khác, đó là bất
cứ những gì chính nó thật sự hiện hữu.
Những gì hiện hữu do sự suy nghĩ và
trí tưởng tượng của con người thì không thể dùng làm đề mục trong thiền Quán.
Vipassana, thiền Minh Sát hay thiền Quán, là pháp hành thanh lọc tâm và mục
đích của thiền Vipassana là để giúp ta nhận thức được ba đặc tướng (tam
tướng), để có kinh nghiệm thực chứng bản chất vô thường, khổ, và vô
ngã nơi sự vật. Ðể hành giả thật sự thấy được ba đặc tướng này, đối
tượng thiền tập của hành giả phải hội đủ ba đặc tướng đó.
Một đề mục hành thiền hội đủ ba đặc
tướng này khi nó thật sự hiện hữu, sanh rồi diệt, và vì có sanh diệt nên mang
bản chất vô thường, khổ, và vô ngã. Những gì chỉ hiện hữu qua sự suy nghĩ, qua
trí tưởng tượng của chúng ta thì không thể là đề mục thiền Quán Vipassana, vì
chúng không hội đủ ba đặc tướng, trong khi đó tác dụng của pháp thiền Vipassana
là để thẩm thấu ba đặc tướng này.
Hãy lấy một ví dụ về 'chiếc xe hơi'.
Chiếc 'Xe' thoạt 'trông như' có thật, nhưng khi ta tháo rời từng bộ phận, ta
không còn cái gọi là 'Xe' mà chỉ còn những bộ phận phụ tùng rời rạc. Cái mà ta
gọi là Xe, thật sự chỉ là một khái niệm, chỉ hiện hữu trong trí óc suy nghĩ
tưởng tượng của ta. Danh từ 'Xe' chỉ là một khái niệm quy ước được tạo ra để
nói chuyện chứ không là một thực tại hiện hữu.
Một ví dụ khác là 'bàn tay'. Với đôi
mắt, ta nhìn thấy 'bàn tay', nhưng thật sự con ngươi không thấy 'bàn tay' mà
chỉ thâu nhận những dữ kiện (về hình tướng) của bàn tay, và trí óc cho đó là
bàn tay. Trí óc ta thật sự nhìn biết qua 'tâm thấy' (nhãn thức). Ngay sau 'Tâm
thấy' đó lại có những chập tâm khác và chính tạiến trình một chuỗi những tâm
sau này đã ghép lại những dữ kiện của bàn tay, và ta 'thấy' được bàn tay. Ta
không thể thấy được sự khác biệt giữa những dữ kiện về bàn tay (từ Tâm thấy) và
khái niệm về bàn tay (từ sự gom chấp những dữ kiện này trong tâm) vì chính tâm
ta không đủ nhạy bén để thấy rõ được những tâm khác nhau đang nối tiếp sanh
khởi không ngừng. Do đó, đối với ta, dữ kiện và khái niệm, cả hai xem như là
một, và ta nói: Tôi thấy 'bàn tay'.
Khái niệm gồm có hai loại: khái
niệm về tên gọi và khái niệm về sự vật. Trở lại với ví dụ
'bàn tay', danh từ 'bàn tay' là khái niệm về tên gọi (name concept), trong khi
đó chính bàn tay năm ngón này là khái niệm về sự vật (thing concept). Khái niệm
về tên gọi là những danh từ được đặt ra và gán vào một vật hoặc một người,
trong khi đó khái niệm về sự vật chính là vật hay người được gán vào bằng những
danh từ kia.
Ta không biết được điểm khởi đầu của
một danh từ, một khái niệm về tên gọi và ta cũng không biết được khi nào danh
từ này biến mất. Làm sao ta có thể thấy được sự sinh diệt của một đối tượng khi
chính nó không sinh cũng chẵng diệt? Vì vậy, khái niệm không thể làm đề mục
trong thiền Quán Vipassana.
Vậy khi thấy một bàn tay, ta phải
ghi nhận và chú niệm ra sao? "Bàn tay, bàn tay..." hay là "Thấy,
thấy..."? Ta phải niệm "thấy, thấy...". Nếu ta niệm 'bàn tay' là
ta đang niệm về một khái niệm, và ta sẽ không bao giờ thấy được ba đặc tính vô
thường, khổ, và vô ngã nơi nó. Nếu ta niệm 'thấy, thấy...' là ta đang ghi nhận
Tâm thấy. 'Tâm thấy' sinh ra rồi hoại diệt. Ðây là một sự thật tuyệt đối, một
chân đế mà ta có thể kinh nghiệm được, có thể dùng làm đề mục thiền quán. Ðiểm
này là một điểm rất quan trọng.
Hầu hết mọi vật đều mang hai loại
khái niệm: tên gọi và sự vật. Con người cũng vậy, cũng mang hai loại khái niệm
về tên gọi và về sự vật. Danh từ 'con người' là khái niệm về tên gọi và con
người bằng xương bằng thịt là khái niệm về sự vật. Vậy trong con người, có sự
thật tuyệt đối chăng, có chân đế chăng? Thân và tâm là những sự thật tuyệt đối
trong con người. Trong sự phân tích rốt ráo tột cùng, chỉ có thân-tâm là thật
sự hiện hữu, là những sự thật tuyệt đối, ngoài ra không có gì khác.
Chân đế là gì? Thực tại là gì? Ðó là
cái gì đúng y như vậy, không sai chạy như đã được nhận biết. Một ví dụ là những
dữ kiện về một vật thấy. Một định nghĩa khác của thực tại hoặc chân lý tuyệt
đối là những gì ta có thể nhận biết qua sáu giác quan (tai, mắt, mũi, lưỡi,
thân, và ý), là những gì ta có thể kinh nghiệm được qua thiền Quán Vipassana.
Qua phương pháp thiền Quán
Vipassana, ta có thể kinh nghiệm được thân-tâm một cách rõ ràng, thấy được sự
sinh diệt của chúng. Ta biết được thân-tâm là những thực tại, những sự thật
tuyệt đối vì ta có thể thực chứng kinh nghiệm được chúng qua sự thiền tập.
Những gì một người thực chứng được là những chân đế. Ta có thể đọc sách về
những sự thật tuyệt đối, hoặc nghe giảng về chúng, nhưng đối với ta, chúng chỉ
thật sự là những thực tại khi nào chính bản thân ta có kinh nghiệm về chúng.
Ví dụ ta có thể nghe nói đến hoặc
đọc về cái 'thấy'. 'Thấy' là một sự thật tuyệt đối. Nhưng nếu một người không
kinh nghiệm được cái thấy (như trường hợp một người bẩm sinh bị mù), đối với
người này, cái 'thấy' không phải là một kinh nghiệm thực chứng, không là một
thực tại, mà chỉ là một điều nghe lại từ người khác hoặc học biết qua sách vở.
Một ví dụ khác: Ta học Vi Diệu Pháp,
về 121 loại Tâm và 52 loại Tâm sở. Chúng là những sự thật tuyệt đối. Khi nào ta
chưa thực sự kinh nghiệm chúng qua chính bản thân, qua thiền tập của chính
mình, lúc đó đối với ta, chúng vẫn chỉ là những khái niệm, vì ta chỉ biết đến
chúng qua từ ngữ trong kinh điển. Khi ta hành thiền Quán Vipassana và thật sự
trông thấy tâm đang đồng sinh khởi với Tham, ta kinh nghiệm tâm Tham ngay trong
bản thân mình, và lúc đó đối với ta, tâm Tham là một chân đế không sai chạy.
Cùng là một sự thật, đối với một người chưa kinh nghiệm qua, nó chỉ là một khái
niệm, nhưng đối với người đã từng kinh nghiệm nó, nó là một sự thật tuyệt đối,
một chân đế. Do đó, một chân đế chỉ được biết qua sách vở hoặc nghe lại từ
người khác vẫn chỉ là một khái niệm mà thôi.
Ðọc về sách thiền, ta biết có một
trng thái tâm gọi là hỷ (piti). Trong sự hiểu biết này, hỷ vẫn là một khái
niệm. Khi hành thiền và thực chứng hỷ, tâm sở hỷ nay trở nên một thực tế đối
với ta. Do đó, bất cứ chân lý nào khi chưa được thực chứng kinh nghiệm qua
chính bản thân thì nó chỉ là một khái niệm.
Khi nói về thực tại, tất cả những gì
mà ta thấy hoặc kinh nghiệm ngoài thiền Quán đều là những thực tế 'bề ngoài'
(apparent realities). Ví dụ, khi nhìn một đàn kiến từ xa thì chúng trông chẳng
khác nào một đường đen không dứt đoạn, hoặc khi một cây đuốc được xoay tròn thì
nó tạo ảo ảnh một vòng lữa, hoặc một dòng cát chảy từ một túi treo trên cao tạo
hình ảnh một cột cát nối liền từ túi cát đến mặt đất. Người ta thường hay nói
"có thấy thì mới tin". Tuy nhiên, có rất nhiều cái thấy mà lại không
đúng với thực tế, như những ví dụ nêu trên. Chúng chỉ là những "thực tại
bề ngoài", chính vì chúng mà ta không thấy được sự thật tuyệt đối, chúng
che lấp thực tại của sự vật, chúng chỉ là những khái niệm. Chỉ khi nào ta hành
thiền Quán Vipassana, ta mới có khả năng xuyên qua những lớp vỏ bề ngoài này và
thấu suốt vào sự thật tuyệt đối bên trong.
Do đó, khi hành thiền Quán
Vipassana, ta phải cố gắng thấu đạt Chân đế, dùng 'thực tế tuyệt đối' này làm
đề mục hành thiền. Có như vậy ta mới phá vỡ được những lớp vỏ 'thực tế bề
ngoài' và xuyên thấu vào chân đế từng bị chúng che lấp. Chỉ có sự quán niệm
liên tục và sắc bén mới có khả năng xuyên thấu chân đế.
Hành giả sơ cơ rất dễ lầm lộn một
đối tượng do khái niệm và nghĩ rằng mình đang quán sát một đối tượng thuộc chân
đế, hoặc có khi thì ghi nhận đối tượng do khái niệm, có lúc thì lại ghi nhận
đối tượng thuộc chân đế, không phân biệt được rõ ràng.
Ví dụ khi thiền sinh theo dõi hơi
thở ra vào nơi đầu mũi. Nếu cảm nhận như có một cây bút chì đang di chuyển vào
ra nơi mũi, quý vị đang ghi nhận một khái niệm. Chỉ khi nào quý vị cảm thấy
được sự di chuyển hoặc đặc tính căng dãn của hơi thở, lúc đó quý vị mới có được
chánh niệm trên bản chất thật sự của hơi thở, trên chân lý tuyệt đối trong hơi
thở. Khi quán sát hơi thở, ta không chú niệm vào hình dáng của hơi thở mà phải
chú niệm vào đặc tính của nó -- sự chuyển động hoặc căng dãn. Thấy được những
đặc tính này, ta thấy được chân lý tuyệt đối trong hơi thở.
Cũng như thế đối với đề mục phồng
xẹp nơi bụng. Khi hành giả theo dõi được sự chuyển động, sự căng phồng và thư
dãn nơi bụng, hành giã đang có chánh niệm trên chân đế của đối tượng đang quán
sát -- đó là nguyên tố Gió (phong đại). Ðặc tính của nguyên tố gió là sự chuyển
động. Lúc đó hành giả cảm nhận rõ ràng sự chuyển động và căng dãn nhưng không
nhận thấy được hình dáng của bụng hoặc màng bụng. Lý do là vì tâm định của hành
giả lúc này khá mạnh, có khả năng xuyên thấu vào chân lý tuyệt đối, nên tâm
không chú vào những gì thuộc khái niệm.
Các thiền sư bên Miến Ðiện vẫn
thường nói: "Khi Khái niệm được nhận thấy rõ ràng, Chân đế bị che khuất.
Khi Chân đế được quán thấy, Khái niệm dần mờ phai". Trong tiến trình tu
quán niệm, tâm định càng vững trụ, chân đế càng rõ ràng. Chân đế càng rõ ràng,
khái niệm càng phai biến.
Chúng ta vẫn sống trong một thế giới
của Khái niệm, ngôn ngữ ta dùng, âm thanh ta nghe, tư tưởng ta suy nghĩ... biết
bao khái niệm trong từng ngày của cuộc sống. Do đó, khi ta hành thiền quán
Vipassana và bắt đầu có kinh nghiệm với chân lý tuyệt đối, ta thường hay bỡ
ngỡ, cảm thấy khó chịu như có gì không ổn. Có cảm giác như vậy chẳng qua là vì
trong giai đoạn này, khái niệm bắt đầu mờ phai mà thực tại thì chưa thể hiện rõ
ràng.
Do đó ta cần phải cố gắng ghi nhận
cho được chân đế, chứ không ghi nhận khái niệm khi hành thiền Quán Vipassana.
Ðề mục của Vipassana phải là Chân đế chứ không là Khái niệm, vì khái niệm không
có sinh diệt, và do đó, không mang ba đặc tướng Vô thường, Khổ và Vô ngã. Nếu
dùng khái niệm làm đề mục thiền quán, ta sẽ không thực chứng được bản chất sinh
diệt của đối tượng, sẽ không thấy được tính chất vô thường, khổ, và vô ngã của
chúng. Trong khi mục đích của thiền Quán Vipassana là trí tuệ để xuyên thấu ba
đặc tướng, nếu đối tượng thiền quán lại không hội đủ tam tướng này, làm sao
thiền tập mang đến kết quả?
Theo Vi Diệu Pháp, có bốn loại Chân
lý tuyệt đối: Tâm (citta), Tâm sở (cetasika), Sắc hay Thân (Rupa) và Niết bàn
(Nibbana). Bốn chân đế này thực sự hiện hữu, chúng ta có thể thực chứng kinh
nghiệm chúng qua chính bản thân. Trong bốn chân đế, chỉ có Niết bàn là không
thể lấy làm đề mục cho thiền Quán Vipassana, vì Niết bàn không có khởi đầu và
không có chấm dứt (vô thỉ vô chung), không sinh không diệt (bất sinh bất diệt),
không mang đặc tính vô thường và khổ. Chỉ có tâm, tâm sỡ, và thân mới có thể
dùng làm đề mục thiền Quán Vipassana.
Trong Phạn ngữ Pàlại, Tâm là citta,
được định nghĩa là sự 'nhận biết đối tượng'. Tâm là sự nhận biết đơn thuần chớ
không phải là sự ghi nhận (chánh niệm) khi ta hành thiền Quán. Với thiền quán
Vipassana, các thiền sư vẩn thường nhắc nhở : "Hãy để tâm ghi nhận, hãy có
chánh niệm lên đề mục." Tâm nhận biết đơn thuần - citta - được phiên dịch
qua Anh ngữ là 'awareness', mà tâm ghi nhận chánh niệm Sati cũng được dịch là
'awareness'. Do đó quý vị nên hiểu sự khác biệt giữa tâm nhận biết (citta) và
tâm sở chánh niệm (sati).
Khi tâm chỉ đơn thuần ghi nhận,
những đặc tính của đối tượng chưa được nhận rõ. Ví dụ trong cái thấy, có tâm
thấy. Tâm thấy này chỉ làm sự móc nối giữa tâm và đối tượng, lúc này ta chưa
biết được màu sắc của đối tượng, hay đối tượng kia là đàn ông hay đàn bà, vv..
Tâm luôn đồng sanh khởi với những
tâm sở như: cảm thọ, chú ý, tự tin, thương hại, hiểu biết, chánh niệm, định,
vv... Có 52 tâm sỡ nhưng không phải lúc nào tất cả 52 tâm sở này đồng sanh khởi
với tâm. Có những nhóm tâm sở khác nhau đồng sanh khởi với những loại tâm khác
nhau. Gọi là 'tâm sở' vì những tâm này tuỳ thuộc vào tâm để có mặt, do đó mà
kinh điển có dạy 'tâm dẫn đầu mọi tâm sở', tâm được xem như yếu tố cầm đầu.
Không có tâm ta không thể có tâm sở.
Tâm và tâm sở thuộc về Tâm (hoặc
Danh), Phạn ngữ Pàli gọi là Nàma. Trong lúc thiền, khi một âm thanh sanh khởi,
ta niệm 'nghe, nghe...', đó là ta đang niệm tâm -- tâm nghe hoặc nhĩ thức. Khi
tâm phóng đi đây đó, ta niệm 'phóng tâm, phóng tâm...' đó là ta đang niệm tâm
-- tâm phóng dật. Hoặc khi ta mong cầu ham muốn điều gì, ta niệm 'ham muốn, ham
muốn...'. Ðó là ta đang niệm tâm sở Tham ái - Lobha. Khi cảm thấy giận dữ, ta
niệm 'giận, giận...' ta đang niệm tâm sở Sân - Dosa. Và nếu ta niệm vào ý thức
biết mình đang giận, ta đang niệm tâm, sự nhận biết.
Chân lý tuyệt đối thứ ba là Thân
hoặc Sắc, Phạn ngữ Pàli là Rupa. Thân hoặc vật chất là cái gì thay đổi vì sự
nóng lạnh, đói khát, muỗi mòng,.... Thân không có khả năng nhận biết, không thể
bắt đối tượng vì chính nó là đối tượng.
Thân gồm 28 yếu tố: 4 nguyên tố --
Tứ đại, đất nước gió lửa, và 24 yếu tố phụ, tùy thuộc vào Tứ đại này để sanh
khởi. Trong 24 yếu tố phụ thuộc gồm có 6 giác quan và 6 đối tượng của chúng,
vv... Thân là một chân đế. Thân thật sự hiện hữu, mang trọn tam tướng vô
thường, khổ, và vô ngã, và là đề mục thiền Quán Vipassana.
Khi ta hành thiền quán Vipassana với
đề mục hơi thở ra vào nơi đầu mũi, hoặc sự phồng xẹp nơi bụng, đó là ta đang
dùng Thân làm đề mục thiền. Khi ghi nhận hơi thở ra vào hoặc sự phồng xẹp nơi
bụng, ta đang quán thân. Và khi một âm thanh sanh khởi, nếu ta nghi nhận 'nghe,
nghe...' ta đang niệm tâm, nếu ta chú vào ghi nhận 'âm thanh, âm thanh...' ta
đang niệm thân, vì âm thanh chính là đối tượng của tâm nghe hoặc nhĩ thức.
Khi hành thiền Quán Vipassana, hành
giả chú tâm cố gắng thấy cho được Chân đế, những thực tại tuyệt đối. Ðể thấy
được chân đế, chớ không khái niệm, hành giả cần áp dụng Chánh niệm, tâm ghi
nhận đơn thuần lên đối tượng đang nổi bật trong giây phút hiện tại. Tâm ghi
nhận này là một tâm vững mạnh và liên tục, chớ không là một sự ghi nhận hời
hợt. Một tâm ghi nhận nông cạn, hời hợt không thể được gọi là Chánh niệm -- vì
danh từ Phạn ngữ Pali của Chánh niệm là Sati, và Sati có nguyên nghĩa là
"không nổi bồng bềnh trên mặt". Do đó, Chánh niệm là tâm ghi nhận đơn
thuần đi thẳng sâu vào đối tượng, chẳng khác nào viên sỏi chìm sâu vào đáy hồ.
Với một Chánh niệm vững chắc, sắc
bén, và xuyên thấu như vậy, hành giả mới có khả năng xuyên vượt qua những lớp
vỏ khái niệm và đạt vào chân đế, mà chân đế này, thực tại tuyệt đối này là đối
tượng thực sự của thiền Quán Vipassana, là đối tượng mang trọn ba đặc tướng vô
thường, khổ, và vô ngã, là đối tượng mà chúng ta đang nỗ lực quán sát rõ ràng.
Do đó khi hành thiền Quán Vipassana,
chúng ta cần phải có một cố gắng tinh tấn liên tục giữ tâm Chánh niệm lên đối
tượng đang nổi bật trong từng giây phút hiện tại, và tâm Chánh niệm này phải đủ
vững, đủ mnh để có thể xuyên thấu vào đối tượng một cách sâu sắc. Nếu được như
vậy, hành giả sẽ thấu suốt vào được chân đế, hành giả sẽ tự kinh nghiệm được
những loại chân đế khác nhau. Một khi những chân đế này được thực chứng, hành
giả sẽ kinh nghiệm được sự sinh diệt của chúng và thấy rõ được bản chất vô
thường, khổ, và vô ngã của chúng.
Với trí tuệ xuyên thấu bản chất vô
thường, khổ, và vô ngã, từng bước một, từng giai đoạn một, hành giả tiến gần
đến mục tiêu tối thượng -- đó là sự thực chứng Tứ Diệu Ðế. Vì vậy, chúng ta
phải nỗ lực quán niệm đễ thấy được Chân đế, ngay trong chính kinh nghiệm của
ta, ngay trong chính thân tâm ta, và cứ vậy mà tiến mãi cho đến lúc viên thành
mục tiêu tối thượng đó.
Ðến đây, Sư xin trình bày thêm về đề
tài 'thiền sư và đề mục thiền'.
Khi hành thiền và dạy thiền, thông
thường mỗi vị thầy có đề mục theo sở thích riêng. Tuy nhiên nếu đề mục ấy thuộc
Chân đế, thì đó là đề mục chính đáng của thiền quán Vipassana. Có những thiền
sư, dựa vào kinh nghiệm bản thân riêng mình, thích hợp với một đề mục nào đó,
nên khi dạy thiền, truyền dạy phương pháp đã đem kết quả cho chính mình. Những
vị này suy nghiệm rằng đề mục này hợp cho mình thì có thể hợp với đa số các
thiền sinh. Do đó, chúng ta có những vị thầy dạy thiền với những đề mục khác
nhau.
Hòa thượng Mahasi, khi dạy thiền Tứ
Niệm Xứ, lấy chuyển động phồng xẹp nơi bụng làm đề mục chính. Thật ra, Hoà
thượng không phải là người đầu tiên nghiệm ra đề mục phồng xẹp và chính Hòa
thượng trước tiên cũng không hành thiền Quán với đề mục này. Ðề mục này đầu
tiên do một thiền sư cư sĩ áp dụng và giảng dạy. Vị này là bạn đồng môn của
Ngài Mahasi, cùng là đệ tử của Hòa thượng thiền sư danh tiếng Mingun Sayadaw.
Vị thiền sư cư sĩ này dạy môn đệ quán lên sự phồng xẹp nơi bụng và nhận thấy đa
số các thiền sinh dễ bắt rõ đề mục này hơn là hơi thở ra vào nơi đầu mũi. Ngài
Mahasi đồng ý về điểm này qua kinh nghiệm dạy thiền và nhận xét của chính mình.
Do đó mà về sau, Ngài luôn luôn dùng cử động phồng xẹp nơi bụng làm đề mục
chính để dạy thiền Quán. Trong khi đó, những thiền sư khác có thể chưa bao giờ
áp dụng đề mục Phồng xẹp này và dùng những đề mục khác để dạy thiền Quán.
Ðề mục chẳng qua chỉ là một phương
tiện để hành giả có được tâm định. Lúc mới đầu, hành giả thường thấy khái niệm
(tục đế) nhiều hơn, nhưng một khi đã giữ tâm được trên một đối tượng hoặc đề
mục nào đó, hành giả sẽ phát triển được định tâm. Một vị thầy có thể dùng bất
cứ đề mục gì để dạy pháp môn thiền Quán, miễn là đề mục đó là một Chân đế, một
thực tế tuyệt đối chứ không phải là một khái niệm.
Mục đích của sự lựa chọn đề mục
chính ở đây là giúp thiền sinh có được tâm định càng dễ dàng và mau chóng càng
tốt. Do đó, ta không thể cho rằng đề mục này sai hay đề mục kia đúng. Nếu đề
mục đó thuộc chân đế, nếu quý vị thử tu tập và thấy thích hợp với chính mình,
thấy mình có được tâm định một cách dễ dàng, quý vị cứ giữ lấy khi nhận biết
rằng, đây là đề mục tốt nhất cho chính mình. Không có đề mục thiền Quán nào tốt
hơn đề mục nào, chúng đều là những đề mục mà thôi.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao
Hòa thượng Mahasi Sayadaw lại dùng chuyển động phồng xẹp nơi bụng làm đề mục
dạy thiền Quán Vipassana? Trong bản chú giải của kinh Ðại Niệm Xứ có ghi,
"thiền quán niệm hơi thở đưa dẫn đến nhập thiền Jhana, đây là phương pháp
thiền Chỉ Samatha", và khi giảng về phương pháp quán niệm hơi thở, Chú
giải giảng qua thiền Chỉ Samatha rất cặn kẽ. Nhưng, như quý thiền sinh đã biết,
khi hành thiền nếu ta dùng khái niệm hơi thở làm đề mục, ta
đang hành thiền Chỉ Samatha. Nhưng khi ta chú tâm ghi nhận bản chất của
hơi thở, ví dụ yếu tố gió trong hơi thở, sự chuyển động của hơi thở nơi đầu
mũi, ta đang hành thiền Quán Vipassana vì yếu tố Gió, một trong bốn nguyên tố
Ðất Nước Gió Lữa, là một thực tại tuyệt đối, một chân đế. Nếu chọn đề mục hơi
thở nơi đầu mũi để dạy thiền, Hòa thượng cứ phải lặp đi lập lại sự khác biệt
giữa khái niệm hơi thở nơi đầu mũi với bản chất thật sự của hơi thở nơi đầu
mũi, do đó Ngài dùng sự phồng xẹp nơi bụng làm đề mục dạy thiền để tránh cho
thiền sinh khỏi lẫn lộn.
Từ bao năm qua, Sư đến Thiền Viện
này để dạy Pháp học cũng như hướng dẫn những khóa thiền. Sư thấy được sự phát
triển của Trung tâm Thiền này. Ngày nay, Trung tâm này được xem như là một
trung tâm Thiền đứng đắn và nhiều uy tín, một nơi mà pháp môn thiền Quán
Vipassana được hành trì một cách thuần khiết, không pha lẫn trà trộn với pháp
môn nào khác. Tại đây, chúng ta hành trì thiền Quán Vipassana như được chỉ dạy
trong Tam Tạng Kinh, trong các Chú giải, theo đúng truyền thống Ðạo Phật Nguyên
thủy.
Sư sẽ luôn cố gắng đến với quý vị
thường xuyên dựa vào thời khóa biểu của chính Sư cũng như vào sự thỉnh mời của
quý vị. Sư luôn hoan hỉ đến với Như Lai Thiền Viện vì Sư xem quý vị như là
những người bạn đồng hành, cùng đi với Sư trên con đường hoằng dương Giáo Pháp
Ðức Phật tại phương Tây này, về Pháp Học cũng như về Pháp Hành -- Pháp môn
Thiền Quán Vipassana thuần túy.
Cùng chung sức, chúng ta có thể đem
rất nhiều lợi lạc đến tất cả những ai có tâm mong cầu học hiểu Giáo Pháp Ðức
Phật. Mặc dù Sư rất bận bịu với những trách nhiệm Phật sự khắp nơi, nhưng mỗi
lần bước chân vào Như Lai Thiền Viện này, Sư luôn hết lòng chia xẻ sự hiểu biết
và kinh nghiệm của Sư đến quý vị. Sư rất mang ơn quý vị đã cho Sư cơ hội đem
Giáo Pháp Ðức Phật đến chia xẻ cùng quý vị cũng như đến những ai có tâm mong
cầu Pháp bảo.
Sau đây là những câu Paritta chúc
phúc Sư xin gửi đến quý vị:
Mong phước báu đến với người
Mong Chư thiên che chở người
Do Oai lực của chư Phật
Mong Hạnh phúc đến cùng người.
Mong Chư thiên che chở người
Do Oai lực của chư Phật
Mong Hạnh phúc đến cùng người.
Mong phước báu đến với người
Mong Chư thiên che chở người
Do Oai lực của Pháp bảo
Mong Hạnh phúc đến cùng người.
Mong Chư thiên che chở người
Do Oai lực của Pháp bảo
Mong Hạnh phúc đến cùng người.
Mong phước báu đến với người
Mong các Chư thiên che chở người
Do Oai lực của chư Thánh Tăng
Mong Hạnh phúc đến cùng người.
Mong các Chư thiên che chở người
Do Oai lực của chư Thánh Tăng
Mong Hạnh phúc đến cùng người.
Mong quý vị được sức khỏe, hạnh phúc
và an lành.
Mong quý vị chứng đạt được Niết Bàn trong thời gian ngắn ngủi nhất.
SADHU! SADHU! SADHU
Mong quý vị chứng đạt được Niết Bàn trong thời gian ngắn ngủi nhất.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét