Chúng
ta có thể tìm hiểu thêm về: Sự tìm kiếm những lạc thú như là một cái đích của
chủ nghĩa khoái lạc mang ta đến đâu? Cho đến bây giờ nó đã tiếp diễn qua nhiều
thập niên nhưng kết quả là con người có cảm thấy hạnh phúc hơn hay không? Dường
như ngày nay chúng ta đã được ban cho nhiều quyền và tự do làm bất cứ chuyện gì
chúng ta thích với ma túy, tình dục, đi lại và cứ như thế - bất cứ thứ gì cũng
xong, thứ gì cũng được phép; không thứ gì bị cấm cả. Bạn phải làm một điều gì
thật là ghê tởm, thật là hung bạo, trước khi bị xa lánh, tẩy chay. Nhưng khả
năng chạy theo dục tính có làm cho ta cảm thấy vui hơn hoặc thư giãn và bằng
lòng hơn không? Thật ra nó có khuynh hướng làm cho ta trở nên rất ích kỷ; chúng
ta không nghĩ về hành động của chúng ta có thể ảnh hưởng đến những người khác
như thế nào. Chúng ta có khuynh hướng chỉ nghĩ cho mình: tôi và hạnh phúc của
tôi, tự do của tôi, và những quyền lợi của tôi. Như thế thì tôi trở thành một
sự bực mình, một nguồn gốc của sự thất vọng, sự quấy rầy và khổ sở cho những
người xung quanh tôi. Nếu tôi nghĩ tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi muốn hoặc
nói bất cứ điều gì tôi cảm thấy muốn nói, ngay cả với sự thiệt hại của những
người khác, thì tôi không là gì cả ngoài mối gây ra phiền toái của xã hội.
Khi
cái cảm giác của 'cái gì tôi muốn' và 'cái gì tôi nghĩ nên và không nên' nảy
sinh, và chúng ta ao ước được vui sướng trong tất cả những lạc thú của đời
sống, chúng ta không thể nào tránh khỏi bị tổn thương bởi vì cuộc đời dường như
không mấy hứa hẹn lắm và mọi chuyện dường như không xảy ra theo ý muốn của con
người. Chúng ta chỉ biết quay cuồng theo đời sống - chạy vòng lẩn quẩn trong
cái trạng thái của sự sợ sệt và khát khao. Và ngay cả khi chúng ta có được mọi thứ
chúng ta muốn, chúng ta sẽ nghĩ có cái gì đó còn thiếu, cái gì đó vẫn chưa hoàn
chỉnh. Thế thì ngay cả khi đời sống ở ngay cái tuyệt đỉnh của nó, cái cảm giác
này của sự đau khổ vẫn còn đó - có cái gì đó vẫn chưa xong, một sự hoài nghi
hoặc lo lắng vẫn đang ám ảnh chúng ta .
Một ví
dụ điển hình, tôi vẫn thích cảnh trí đẹp. Có lần trong lúc ẩn trí ở Thụy Sĩ,
tôi được đưa đến một vùng rừng núi và ở đó nó đã cho tôi một cảm giác của sự
khổ não bởi vì có nhiều nguồn cảnh trí đẹp tuyệt vời. Tôi có cảm giác như muốn
chận giữ tất cả mọi thứ, làm tôi lúc nào cũng phải cố gắng thật tỉnh táo để
thưởng thức cho được mọi thứ bằng mắt. Điều đó đã thực sự làm tôi rã rời! Thực
trạng đó cũng chính là khổ (dukkha), phải thế không?
Tôi
thấy rằng nếu tôi làm việc gì không cần sự chú ý - ngay cả những điều vô hại
như xem cảnh đẹp của núi đồi - nếu tôi chỉ thể hiện mình và cố gắng chận giữ
một cái gì đó, nó luôn luôn đem lại một cảm giác khó chịu. Làm sao bạn giữ được
Jungfrau và Eiger? Điều tốt nhất bạn có thể
làm là chụp ảnh nó, cố gắng thâu tóm được mọi thứ trên một miếng giấy. Đó là
dukkha; nếu bạn muốn chận giữ một cái gì đẹp bởi vì bạn không muốn xa nó - đó
là đau khổ rồi.
Bị rơi
vào những tình huống bạn không thích cũng là đau khổ. Ví dụ, tôi không bao giờ
thích đi xe điện ngầm ở Luân Đôn, tôi thường kêu ca về nó: 'Tôi không muốn đi
xuống xe điện ngầm để phải thấy những tấm biển quảng cáo kỳ quặc và những ga xe
cáu bẩn. Tôi không muốn bị ép đứng trong những toa xe ngầm dưới đất'. Tôi thấy
nó như một kinh nghiệm cực kỳ khó chịu. Nhưng rồi tôi lắng nghe tiếng nói rên
rĩ than van này - sự đau khổ không muốn chung đụng với những sự thể gây khó
chịu. Sau khi nghiền ngẫm về điều này, tôi đã ngừng tạo ra những cảm giác trên
để có thể hoà mình vào những cái khó chịu và không đẹp mà không phải đau khổ vì
nó. Tôi đã nhận thức rằng nó phải như vậy và như thế mọi việc rồi cũng ổn cả.
Chúng ta không cần tạo ra vấn đề - dù cho ở tại một ga xe điện ngầm cáu bẩn hay
đang ngắm cảnh đẹp. Sự vật là cái đang là, bởi vậy chúng ta có thể nhận ra và
hiểu được nó trong những dạng biến động mà không được bắt giữ nó. Bắt giữ là
muốn chận giữ lại những gì ta thích; tiêu diệt những gì ta không thích; hoặc
muốn chiếm hữu những gì ta không có.
Chúng
ta có thể đau khổ nhiều bởi vì những người khác. Tôi nhớ có lần ở Thái Lan tôi
thường có những tư tưởng xấu về một vị sư. Lúc đó ông ta làm những điều mà tôi
nghĩ 'Ông ta không nên làm điều đó' hoặc ông ta nói những điều mà tôi nghĩ 'Ông
ta không nên nói điều đó!'. Tôi đã mang vị sư này theo trong tâm trí và rồi,
ngay cả nếu tôi đi tới những chỗ khác, tôi vẫn nghĩ về vị sư đó; sự nhận thức
về ông ta lại nảy sinh và cũng cái phản ứng đó lại đến: 'Mình có nhớ khi ông ta
nói điều này và khi ông ta làm điều đó?' và: 'Ông ta đáng lẽ không nên nói điều
đó và ông ta đáng lẽ không nên làm việc đó'.
Tìm
được một người thầy như Ajahn Chah, tôi nhớ mình đã muốn ông ta hoàn thiện. Tôi
nghĩ, 'ồ, ông ta là một người thầy kỳ diệu - tuyệt vời!'. Nhưng rồi có khi ông
lại làm điều gì đó khiến tôi buồn và tôi lại nghĩ, 'Tôi không muốn ông làm bất
cứ điều gì khiến tôi buồn bởi vì tôi muốn nghĩ ông thật tuyệt vời'. Giống như
nói, 'Ajahn Chah, lúc nào cũng phải tuyệt diệu đối với tôi. Đừng bao giờ làm
bất cứ điều gì có thể gieo những tư tưởng xấu trong tâm trí tôi'. Như vậy ngay
cả khi bạn gặp ai khiến bạn thực sự kính trọng và yêu mến, vẫn có đau khổ của
sự ái luyến. Họ sẽ không thể nào tránh khỏi làm hoặc nói những điều khiến bạn
ngờ vực mà bạn sẽ không thích hay chấp nhận được - và bạn sẽ đau khổ.
Có
lần, một nhóm tu sĩ người Mỹ đến Wat Pah Pong, tu viện của chúng tôi ở miền
Đông Bắc Thái Lan. Họ rất khó tính và hình như họ chỉ thấy những điều sai. Họ
đã không nghĩ Ajahn Chah là một người thầy rất giỏi và họ cũng không lấy làm
thích tu viện lắm. Tôi cảm thấy giận vô cùng và sự căm ghét nảy sinh bởi vì họ
đã chê bai những gì tôi yêu mến. Tôi cảm thấy lòng đầy căm phẫn - 'Tốt lắm, nếu
các ông không thích thì xin ra khỏi chốn này. Ông ta là bậc thầy giỏi trên thế
giới và nếu các ông không thấy được thì xin ĐI!'. Sự ràng buộc đó - thương và
hy sinh - là đau khổ bởi vì nếu điều gì hoặc ai đó bạn yêu thích bị chê bai hay
chỉ trích, bạn cảm thấy giận và căm phẫn.
Lắm
lúc sự tự chứng nảy sinh trong những lúc bất ngờ nhất. Điều này đã xảy đến với
tôi trong lúc sống tại Wat Pah Pong. Miền Đông Bắc Thái Lan không phải là nơi
đẹp và ưa thích nhất trên thế giới với những khu rừng rậm và bình nguyên bằng
phẳng; nó cũng rất nóng về mùa hè. Chúng tôi thường phải đi ra ngoài trong cái
nóng oi bức ban chiều trước ngày chay (Trai Nhật) để quét sạch lá khô trên
những lối đi. Những khoảng phải quét thật là mênh mông. Chúng tôi phải tốn cả
buổi chiều dưới ánh nắng mặt trời, mồ hôi nhễ nhại, quét lá gom thành từng đống
với những cây chổi thô sơ; đây là một trong những bổn phận của chúng tôi. Tôi
đã không thích làm việc này. Tôi nghĩ, ' Tôi đâu có muốn làm việc này. Tôi đến
đây không phải để quét lá; tôi đến đây để ngộ đạo - và sao họ lại bắt tôi quét
lá. Hơn nữa, trời thì nóng và da tôi lại trắng; biết đâu tôi lại bị ung thư da
vì phơi nắng ngoài trời trong cái khí hậu nóng'.
Tôi
đang đứng ngoài đó vào một buổi chiều, cảm thấy rất là khổ sở, suy nghĩ, 'Tôi
đang làm gì ở đây? Tại sao tôi đến đây? Tôi ở lại đây làm gì?'. Tôi đứng ở đó
với cây chổi dài thô sơ của tôi và tuyệt đối không còn một chút năng lực, cảm
thấy thương hại cho chính tôi và căm ghét mọi thứ. Rồi Ajahn Chah đến, cười tôi
và nói, 'Wat Pah Pong khổ quá, phải không?' rồi bỏ đi. Và như thế mà tôi nghĩ,
'Tại sao ông ta lại nói như vậy?' và, 'Thật ra, bạn có biết, nó không đến nỗi
tệ như vậy đâu' Ông đã khiến tôi phải suy đi nghĩ lại: 'Quét lá có thực sự khó
chịu như thế không? ... Không, không chút nào hết. Quét lá là một việc làm thật
vô tư; bạn quét lá, và nó không ở đây cũng không ở kia ... Đổ mồ hôi có ghê gớm
không? Quét lá có thực sự là một kinh nghiệm khổ sở nhục nhã không? Quét lá có
thực sự tệ hại như những gì tôi đã giả vờ như thật không? ... Không - đổ mồ hôi
cũng là bình thường thôi, nó là một điều hoàn toàn tự nhiên. Và tôi không bị
ung thư da và người ở Wat Pah Pong cũng tử tế nữa. Thầy là một người tử tế công
minh. Mấy sư cũng đối xử rất tốt. Những người trần tục đến và cho tôi thức ăn,
và .... Tôi còn phàn nàn cái gì?'
Nhìn
lại kinh nghiệm thực tế sống ở đó, tôi nghĩ, 'Tôi chẳng có vấn đề gì cả. Mọi
người trọng tôi. Tôi được đối xử tử tế. Tôi đang được huấn tập bởi những người
tốt trong một quốc gia dễ chịu. Không có điều gì thật sự sai trái cả, trừ tôi
ra; tôi đang tạo dựng một vấn đề bởi vì tôi không muốn đổ mồ hôi và tôi không
muốn quét lá'. Như thế tôi đã có được một sự tự chứng rõ ràng. Tôi chợt nhận
thức được trong tôi những gì đã luôn luôn phàn nàn và chê trách, những gì đã
ngăn cản tôi làm việc thiện nguyện trong mọi hoàn cảnh.
Một
kinh nghiệm khác tôi đã học được từ cái thông lệ rửa chân cho những vị sư cao
tuổi sau khi họ trở về từ những chuyến đi khất thực. Vì họ đi chân không xuyên
làng mạc và đồng ruộng, chân họ thường dính bùn. Bên ngoài phòng ăn là những
chậu rửa chân. Khi Ajahn Chah về, tất cả những tỳ kheo khác chạy ra - khoảng
chừng hai đến ba mươi người - đổ xô ra để rửa chân Ajahn Chah. Khi nhìn thấy
cảnh nầy lần đầu tôi đã nghĩ, 'Tôi sẽ không làm chuyện này - không có tôi!',
Qua ngày hôm sau, ba mươi vị tỳ kheo cũng lại đổ xô ra ngay khi Ajahn Chah xuất
hiện để rửa chân ông và... 'Điều đó đã thực sự làm tôi giận, tôi chán cái cảnh
này lắm rồi! Tôi chỉ cảm thấy đó là điều ngu xuẩn nhất tôi đã từng nhìn thấy -
ba mươi người chạy ra để rửa chân cho một người! Ông ta chắc chắn nghĩ mình rất
xứng đáng - và điều đó càng củng cố cái tôi của ông ta. Ông ta chắc chắn có một
cái tôi rất lớn, có thật nhiều người rửa chân ông ta mỗi ngày. Tôi sẽ không bao
giờ làm điều đó!'
Trong
tôi đã bắt đầu kết tụ một phản ứng mạnh, một phản ứng quá trớn. Tôi ngồi thừ ra
cảm thấy khổ sở và phẫn uất. Tôi lại nhìn mấy sư và tôi nghĩ, 'Họ trông thật
ngu xuẩn. Tôi cũng không biết tôi đang làm gì ở đây'
Nhưng
rồi tôi bắt đầu lắng nghe và suy nghĩ, 'Đây thực sự là một tâm trạng khó chịu.
Có gì đâu mà phải bực dọc. Họ đâu có bắt buộc mình làm, không sao; đâu có
chuyện gì quấy trong việc ba mươi người rửa chân một người. Điều này không phản
luân lý cũng không phải là việc hành xử ác và có lẽ họ thích như vậy; có lẽ họ
muốn làm điều đó - có lẽ làm như vậy cũng được thôi... Có lẽ tôi cũng nên làm
điều đó!'. Thế là sáng hôm sau, ba mươi mốt vị sư đã ùa ra để rửa chân Ajahn
Chah. Sau đó rồi chẳng còn vấn đề gì cả. Tôi cảm thấy vui: sự khó chịu trong
tôi đã chấm dứt.
Chúng
ta có thể nhìn lại những điều đã làm cho ta nổi sân và căm tức: có cái gì sai
đâu hay đó chỉ là cái dukkha chúng ta tạo ra? Khi ấy chúng ta bắt đầu hiểu được
những vấn đề chúng ta tạo ra trong đời sống của chúng ta và trong đời sống của
những người khác xung quanh ta.
Với
chánh niệm, chúng ta vui lòng chịu đựng cả cuộc sống; với kích thích và chán
nản, hy vọng và tuyệt vọng, vui sướng và đau đớn, say mê và mệt mỏi, bắt đầu và
chấm dứt, sanh và tử. Chúng ta vui lòng chịu đựng cả cuộc sống trong tâm chứ
không phải chỉ thâu nhận cái vui lòng và đè nén cái khó chịu. Tiến trình của sự
tự chứng là đến với dukkha, thấy dukkha, thừa nhận dukkha, công nhận dukkha
trong mọi hình thức. Có như vậy bạn mới không còn phản ứng theo thói quen của
sự chìu theo hoặc đè nén. Và nhờ vậy, bạn có thể chịu đựng nhiều hơn, bạn sẽ có
nhẫn nại hơn với nó.
Những
lời dạy này không ngoài kinh nghiệm của chúng ta. Thật ra, nó là sự xét lại
kinh nghiệm thực tế của chúng ta - không phải là những vấn đề trí thức rắc rối.
Như vậy phải thực sự dồn hết nổ lực vào sự khai triển thay vì phải chịu sa vào
vũng lầy. Bao nhiêu lần bạn đã cảm thấy áy náy về sự thất bại của bạn hay những
lỗi lầm bạn đã mắc phải trong quá khứ? Bạn có phải tốn thì giờ chỉ để tống ra
những thứ đã xảy ra trong đời sống của bạn và để bị mê hoặc trong những bàn
luận và phân tích không bao giờ chấm dứt? Nhiều người đã tự tạo cho họ những
nhân tính phức tạp. Nếu bạn chỉ miệt mài theo đuổi những hoài niệm, quan điểm
và ý kiến của bạn thì bạn sẽ luôn luôn vướng mắc trong thế giới đó và không bao
giờ có thể thoát ra khỏi những giới hạn đó bằng bất cứ cách nào.
Bạn có
thể trút gánh nặng này nếu bạn tự nguyện áp dụng những lời dạy này một cách
thiện xảo. Hảy tự nhủ với mình: 'Tôi sẽ không để vướng phải điều này nữa; Tôi
từ chối gia nhập trò chơi này. Tôi sẽ không nhượng bộ cho cái tánh khí này'.
Hảy khởi sự tự đặt bạn vào trong cương vị của sự hiểu biết: 'Tôi biết đây là
dukkha; có dukkha'. Tìm ra giải pháp đưa đến chỗ nào có đau khổ để mà chịu đựng
theo nó là một điều quan trọng. Chỉ có bằng cách khảo nghiệm và đương đầu đối
mặt với đau khổ, người ta mới có thể hy vọng có được sự tự chứng toàn triệt:
'Đau khổ này đã được hiểu'
Ba
luận điểm của Khổ Đế đã được trình bày như trên. Đây là công thức bạn phải dùng
và áp dụng trong cái nhìn về cuộc đời của bạn. Khi nào bạn cảm thấy đau khổ,
đầu tiên phải có sự công nhận: 'Có đau khổ', kế đó: 'Đau khổ phải được hiểu',
và cuối cùng: 'Đau khổ đã được hiểu'. Sự hiểu biết về dukkha là sự tự chứng
trong Khổ Đế.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét