4. Khổ và Nguyên nhân của khổ
Tất cả mọi người đã được sinh ra đều bình đẳng trước đau khổ. Đau khổ là hệ quả của bám níu và thủ chấp vốn không chịu chấp nhận sự đổi thay tất yếu. Khi còn trẻ tuổi ta mong rằng lớn lên ta sẽ như thế này hay như thế kia. Dù rõ rệt hay tiếm ẩn, mỗi người trẻ tuổi đều tự xây một hình mẫu nào đó trong đầu và cố gắng để đạt được, hay gần hơn với thần tượng. Đối diện với thực tế không như ý, nhiều thanh thiếu niên đã bất mãn, mất phương hướng và niềm tin, thậm chí chọn biện pháp tự tử để kết thúc một cuộc đời vô nghĩa. Sự thất vọng và bất mãn có nguồn gốc từ việc bám níu, thủ giữ vào những giá trị, chuẩn mực định sẵn trong đầu những ai thiếu thực tế. Nếu họ đừng xây những lâu đài trên cát, hay ít nhất cũng biết rằng mộng tưởng chỉ là những trò chơi lãng mạn không đi tới đâu, và nếu họ biết quay trở về với những gì chỉ là bình thường của cuộc sống,.. thì có lẽ nhiều bi kịch trong cuộc đời đã không xảy ra.
Đau khổ vì phản ứng một cách thiếu sáng suốt trước những đổi thay bất ngờ có thể gây ra một chuỗi sự kiện đau đầu không kiểm soát được. Chẳng hạn bạn đang lái xe vào giờ cao điểm, nạn kẹt đường đang là chuyện thường ngày rên lộ trình mà bạn phải đi qua. Có ai đó làm một cú rẽ bất ngờ ngay trước mũi xe bạn, bạn chỉ kịp fan xe vừa đủ tránh tai nạn. trong đầu bạn hình thành những ý nghĩ bực tức và giận dữ. Không kiềm chế được bạn bóp còi ing ỏi, hay thậm chí chửi rủa kẻ đó. Những chiếc xe phía sau cũng mất kiên nhẫn và bóp còi hay tìm cách nhích lên bất chấp luật lệ. Nếu tai nạn xẩy ra, và các tài xế vẫn còn đủ mạnh để xông vào nhau hơn thua, có lẽ một cuộc ẩu đả đã xẩy ra mà hậu quả còn tai hại hơn chỉ là một vụ tai nạn. Đây chỉ là một ví dụ nhỏ trong vô số tình huống bi thảm mà những phản ứng tiêu cực có thể đem lại. Một trong chúng là những cuộc vận động quân sự và những cuộc chiến tranh được mệnh danh là ‘chống khủng bố’ mà chính phủ Mỹ đã khởi xướng nhằm trả đũa cho cuộc khủng bố ngày 11 tháng chín (11 September).
Đau khổ vì những sai lầm đã qua, đau khổ vì những hậu quả tai hại trong hiện tại, đau khổ vì không biết điều gì sẽ đến ngày mai. Và chung qui lại, có bốn điều mà mọi người đều gặp trong cuộc sống, cho dù là ông vua, là hoàng tử, là tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng cho đến kẻ đấu đường xó chợ, kẻ ăn mày vất vưởng không nhà cửa thân thích, tất cả đều bình đẳng trước sanh, già, bệnh, chết. Bạn có thể nói: Sanh, già, bệnh, chết là lẽ tự nhiên, hà cớ gì phải bận tâm đến chúng?
Có ai trong chúng ta khi sinh ra không cất tiếng khóc vì bỗng dưng phải tiếp xúc với một môi trường hoàn toàn xa lạ? Đây chỉ mới là điểm khởi đầu cho một đời sống bấp bênh mà không phải lúc nào chúng ta cũng có thể làm chủ tình huống. Ai cũng muốn mình luôn xinh đẹp, khoẻ mạnh, vui tươi và hấp dẫn, nhưng những ước muốn này phần lớn là không được toại nguyện. Có ai trong chúng ta không phải già và chết không? Cho dù chẳng ai muốn già cả, tuổi già vẫn cứ đến, bệnh tật vẫn cứ đến không thèm hỏi ý kiến của chúng ta. Và những gì mình muốn mà không được, không muốn nhưng vẫn phải chấp nhận đều được cho là khổ. Trong cuộc đời, chúng ta phải gặp gỡ và chung sống với những người mà ta không ưu, không thương, không yêu mến, điều này thật không dễ chịu một chút nào; trong khi đó những gì ta thương yêu, trìu mến và thiết tha thì lại phải chia xa, cách trở. Dù không rơi nước mắt thì tim ta cũng đã bao phen nhói đau vì phải rời xa người/vật/ hay nơi chốn mà ta đã từng yêu mến- đây gọi là khổ của sự chia ly. Có những cuộc chia ly chỉ là tạm thời, và dù khổ sở, người ta vẫn nuôi hy vọng gặp lại người/ vật/nơi chốn mình thương yêu, nhưng cũng có những cuộc chia ly vĩnh viễn mà nỗi đau là gần như không thể nào hàn gắn.
Lại có nhưng nỗi đau do thay lòng đổi dạ. Người ta yêu mến không luôn luôn dễ thương, người đó cũng có những cá tính, những đỏng đảnh đồng bóng thất thường. Do đó từ yêu thành ghét, từ thương thành giận, từ bạn thành thù, và ngược lại. Không có gì đứng yên, không có gì là mãi mãi, nhưng vì thủ chấp bám níu vào những ý tưởng ngốc nghếch của mình, ta không đối diện người, vật và cảnh như bản chất đổi thay vốn có trong đó, nên ta phải khổ khi nhận ra sự đổi thay. Những khổ thương, khổ sầu, khổ luyến ái biệt ly, khổ tương tư mòn mỏi, khổ day dứt bi ai, mỗi mỗi những nỗi khổ chồng lên nhau thành một đống khổ!
Đời người chỉ vẻn vẹn trong ngoài một trăm năm. Trong suốt quảng thời gian đó chúng ta đã trải qua bao thăng trầm, bao sự kiên mà phần nhiều là bất như ý muốn. Chúng ta hy vọng rồi thất vọng, hạnh phúc và khổ đau, thành công và thất bại, được khen ngợi, được thương yêu, nhưng cũng nhiều khi bị chê bai, chỉ trích và ghét bỏ. Những bước thăng trầm trong cuộc đời không ai không trải qua dù ít dù nhiều.
Cuộc đời cũng giống như những con sóng: lên rồi xuống, dạt vào bờ tan biến để cho những con sóng khác tràn lên, nhưng chẳng có con sóng nào cứ lên cao mãi mãi mà không có lúc tụt xuống rồi tan biến. Có những con sóng mãnh liệt vỗ vào ghành đá tung bọt trắng xoá, có những con sóng cuồng nộ lao vào bờ, ghiền nát và đập tan mọi lực cản, nhưng cũng có những con sóng chỉ hiền hoà, lăn tăn dịu dàng êm ái vỗ nhẹ vào bờ. Những cuộc đời mà ta đã gặp cũng vậy, nhưng rốt cuộc rồi ai cũng phải chết, những hy vọng rồi thất vọng, những hạnh phúc và khổ đau, những được và mất trong cuộc đời chỉ như phù du ảo hoá. Không nhận biết được điều này, bị mê hoặc bởi ý thích và đam mê, người ta lao vào cuộc đời như lao vào cuộc chiến, cố gắng giành giật hơn thua. Trong chợ đời không ít lúc ta phải chứng kiến cảnh cá lớn nuốt cá bé, cay đắng ta thở dài mặc nhiên công nhận “chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Vì ích kỷ và ngã chấp người ta có thể chà đạp lên nhau để đạt được điều mình muốn. Khi không đạt được điều mình mong muốn hay không thoả mãn với đối tượng mà mình muốn bóc lột, người ta sân hận, tức tối và muốn đập phá, nghiền nát đối tượng. Tất cả những phản ứng này đều không ngoài “vô minh duyên hành” (avijja paccayā saṅkhārā) mà kết cuộc “là tạo dựng một đống khổ đau” (dukkhakkhandhassa samudayo hoti).
Bản chất của cuộc đời là bất toại nguyện. Cho dù chúng sanh có nhận ra điều này hay không thì chân lí này không vì vậy mà thay đổi. Đây không phải là cái nhìn bi quan yếm thế, mà là cái nhìn thực tế và giác tỉnh trước sự thật. Chúng sanh hầu hết đều không thấy biết điều này nên cứ lao vào “cuộc chơi” như những con thiêu thân lao vào bóng đèn. Chỉ khi thấy biết bản chất ảo hoá phù du của “cuộc chơi”, người ta mới lùi lại để nhìn nó từ một góc độ khác, một cái nhìn sâu hơn, xuyên suốt bề mặt của hiện tượng để thấy bản chất và nguyên nhân của những hiện tượng đó. Trong thuật ngữ Phật học gọi thái độ này là nhận chân nguyên nhân của đau khổ và bất toại nguyện- hai mặt của một vấn đề góp phần vào nhận thức ra Tam pháp ấn.
Nếu như vô minh dẫn dắt chúng sanh đến hành động tạo tác thiện ác để rồi phải gặt hái, thọ nhận những khổ vui trong cuộc đời, thì ái dục (yêu-ghét, thương-giận, thích-không thích, vv) chính là sợi dây trói buộc, là vòng lưới bủa vây khiến chúng sanh cứ luẩn quẩn trong một vòng xoáy không lối ra gọi là luân hồi.
Vì vô minh, chúng sanh thường phản ứng theo bản năng, tìm cách giành lấy và cố giữ những gì ta thích, những gì khiến ta dễ chịu (lạc thọ). Chúng ta bị thu hút về xu hướng này một cách gần như vô thức, và cũng gần như vô thức, ta phản ứng một cách khó chịu với những gì mà ta không thích, ta tránh xa hay cố gắng đẩy lùi những cảm giác khó chịu (khổ thọ). Chính những phản ứng này khiến ta khổ hơn những diễn biến tự nhiên. Gì gọi là diễn biến tự nhiên? Đổi thay gọi là diễn biến tự nhiên, nhưng ta không muốn thay đổi nên khi thay đổi đến ta tiếc nuối, bất mãn và khó chịu. Những gì ta không thích, ta muốn nó thay đổi, ít nhất là đổi vị trí, đừng phải gần nó nữa, nhưng chúng dường như khư khư bất biến khiến ta buồn bực sân hận nhiều hơn. Thực ra không có gì bất biến cả, nhưng cảm giác của chúng ta vốn chủ quan và cảm tính nên ta thấy thời gian tâm lý. Thuật ngữ Phật học gọi đây là dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Tìm kiếm và ngụp lặn, đắm đuối trong dục lạc hưởng thụ gọi là dục ái. Duy trì và tiếp nối, leo thang và cải thiện những hưởng thụ và khoái lạc gọi là hữu ái. Né tránh và xua đuổi, cố gắng dập tắt hay chặn đứng những gì ta không ưu, không muốn gọi là phi hữu ái. Nền tảng của tất cả những hành động và phản ứng kể trên chính là vô minh.
Vô minh trong thuật ngữ Phật học không phải bao giờ cũng dẫn đến bất thiện hành. Ở đây vô minh chính là thấy rằng sinh tử luân hồi là vui, hay nói cách khác chúng sanh không thấy nguy hiểm trong sinh tử, họ đắm nhiễm và thoả thích trong bất cứ cảnh giới nào mà họ đã được sinh ra. Ví dụ như trong cảnh người, một người đàn ông sẽ thấy người đàn bà là hấp dẫn nhất, và ngược lại, người đàn bà cũng thấy người đàn ông là hấp dẫn nhất; nhưng ở trong cảnh thú, ví dụ như con gà trống sẽ thấy con gà mái là hấp dẫn nhất, và ngược lại; những loài thú khác cũng thấy những nhân vật đồng loại với chúng là hấp dẫn, là xinh đẹp nhất. Người viết bỗng nhớ rằng ai đó đã nói rằng đối với con cóc đực thì con cóc cái là sinh vật dễ thương nhất trên thế gian! Có một câu chuyện hài hước kể rằng có một người đàn ông nọ yêu thương một người đàn bà chột mắt, anh ta thấy rằng tất cả các phụ nữ khác trên thế gian đều thừa một mắt! Điều này cũng làm cho vấn đề tự tử vì tình (hay vì tiền, vì danh dự, gì gì đi nữa) trở nên khá dễ hiểu. Trong mắt người trí những trò ngốc nghếch đó thật là vô minh. Vô minh này từ đâu ra?
Vì tâm chúng sanh đã được điều kiện hoá bởi những yếu tố khiến sinh ra trong một hình hài nào đó, trong một cảnh giới nào đó nên chúng không thấy được những gì không thuộc về tầm nhận thức của nó. Ví dụ như một đứa trẻ sinh ra ở nông thôn, suốt thời ấu thơ nó chỉ biết ruộng đồng, cây cỏ, chim muông, v.v, đối với nó những đồ chơi xa xỉ ở thị thành chẳng có ý nghĩa gì cả; và ngược lại, một đứa trẻ sinh ra và lớn lên giữa bốn bứ tường xi măng, được vây bọc bằng những toà nhà cao từng cùa thành phố thì thường không thấy hứng thú gì giữa cảnh thiên nhiên. Một ví dụ khác là với một người không hiểu biết gì về âm nhạc, gảy đàn cho họ nghe chẳng khác gì gảy đàn tai trâu. Cách thẩm thấu về thức ăn, mùi vị, thẩm mỹ, v.v cũng như vậy.
Chúng ta lệ thuộc vào những thói quen mà chúng ta đã được nuôi dưỡng, vào cách giáo dục mà chúng ta đã thọ nhận, vào môi trường văn hoá mà ta đã lớn lên. Nhân cách và cá tính của con người được hình thành và phát triển tuỳ thuộc vào những điều kiện như gia đình (cho gene di truyền, cho môi trường tuổi thơ,..), kinh tế – xã hội, văn hoá – nếp sống, vv. Những ‘vật liệu’ thô này điều kiện hoá cái bản ngã được xây dựng do chấp thủ vào chúng, đồng hoá với kinh nghiệm mà cho là ‘của ta’, là ‘ta’. Ta cho là ngon, là đẹp, là thú vị với những gì ta đã quen thuộc, và ngược lại ta cho là dở và có phản ứng nếu những thứ đó xa lạ với ta. Những giá trị mà chúng ta gắn lên các đối tượng chỉ là những giá trị tương đối và hữu hạn, nhưng cái tâm vô minh lại cho rằng chúng là tuyệt đối và vô hạn. Từ sự vô minh này dẫn đến sự bám víu, thủ giữ vào những giá trị đã được xác nhận (bằng cái tâm đã bị điều kiện hoá), và chối từ, đả kích những gì xa lạ hay không thuộc về ‘mode’ của nó. Bị hấp dẫn về những gì được cho là an toàn, dễ chịu, hợp ý,.. hay phản ứng lại những gì không hợp ý, là khó chịu, là không dễ thương,.. là hai mặt của tâm tham ái. Những phản ứng kiểu này có gốc rễ từ vô minh.
Vô minh khiến người ta có những phản ứng cực đoan vì tin tưởng rằng những giá trị mà mình đang nắm giữ là giá trị chuẩn mực duy nhất. Chiến tranh, giết chóc, tàn sát và nhiều hành động bất nhân khác đều có thể tìm thấy nguồn cội trong vô minh. Vô minh và thủ giữ dẫn người ta đến thái độ thiếu khoan hoà, thiếu bao dung và phi nhân bản. Vô minh khiến người ta thấy những giá trị giả danh, tạm bợ và phiến diện mà không thấy được bản chất thực sự của hiện hữu hay không thấy được mối tương quan, tương duyên của các hiện hữu. Ở cấp độ này vô minh được gọi là kiến chấp. Từ sự nhận thức hẹp hòi (do đã bị điều kiện hoá) người ta đi đến chỗ đả phá, hay cưỡng bức, triệt tiêu những gì không đồng quan điểm, không đồng giá trị trong nhận thức của họ. Những cuộc chiến tranh tôn giáo, những xung đột chính trị thường bắt nguồn từ kiến chấp.
Ở một mức độ vi tế hơn, vô minh chính là ngã chấp. Tại sao có những yêu- ghét, thương- thù, thích – không thích? Vì có Ta, có Người. Những gì thuộc về ta thì thương yêu, gần gũi, những gì thuộc về người thì xa lạ, dè bỉu. Chúng ta thường thiên vị cho những gì mà chúng ta thương yêu, và ngược lại, thành kiến với những gì mà chúng ta không ưa. Nhận thức về một cái Ta tồn tại độc lập và tách biệt, đặc biệt với những gì không phải là Ta khiến chúng ta có những yêu ghét và sợ hãi phát sinh từ những yêu ghét đó. Cái ta này muốn được thương yêu, muốn được kính trọng, muốn được quan tâm đến, và nói chung là nó muốn những gì khẳng định sự tồn tại độc nhất vô nhị của nó. Cái ta này không muốn bị chia sẻ, và nó sẵn sang làm bất cứ điều gì để ngăn chặn điều đó. Cái ta này tìm mọi cách xây những bức tường thành kiên cố mà vật liệu của nó là những cảm giác, những ý tưởng và tình cảm, những mối quan hệ và hoàn cảnh dẫn đến cái hình tượng ‘ta’ trong tâm mỗi người. Chúng ta bám níu vào những hình tượng ‘ảo’ này, tìm mọi cách để bảo vệ và duy trì nó. Chúng ta cảm thấy thương tổn và căm hận khi nó bị xúc phạm. Chúng ta cảm thấy sợ hãi khi nó có nguy cơ tan rã. Chúng ta sợ sự không tồn tại, sự vô nghĩa và sự lãng quên.
Tất cả những hiện tượng kể trên chính là Ái- Thủ- Hữu, nguyên nhân của Sinh trong các mắt xích duyên sinh làm thành vòng quay bất tận của hiện hữu mà chúng ta gọi là cuộc đời. Ái- Thủ- Hữu cũng chính là Hành- tạo tác hay sáng tạo, vẽ vời trên nền tảng của vô minh. Trong Tứ Diệu Đế, vòng quay bất tận này làm thành Khổ Đế- sự thực màu nhiệm về khổ và Tập Đế- sự thực màu nhiệm về nguyên nhân của khổ. Khi hành giả nhận chân ra chúng, chúng mất đi vẻ mầu nhiệm và bí ẩn. Nhưng có gì là cao thượng trong đau khổ và sự hình thành đau khổ? Vâng. Chúng ta sẽ tìm ra vẻ đẹp trong khổ đau và sự mầu nhiệm mà những kinh nghiệm đó có thể thức tỉnh chúng ta trong dòng đời có vẻ như mù loà vô nghĩa này. Phần hai của bài viết này sẽ đề cập đến những giá trị đó dưới tiêu đề Bi- Trí- Dũng và Vô ngã- Vị tha.
Chấm dứt phần vô minh duyên hành.
tiếp theo
🙏🙏🙏
Trả lờiXóa