ĐẠI ĐỨC AJHAN SUMEDHO
Ajahn
Sumedho (1) có thế danh là Robert Jackman. Ông sanh năm 1934 tại
thành phố Seattle, tiểu bang Washington, Mỹ và lớn lên trong một
gia đình đạo Tin Lành cùng với một người chị. Từ năm 1951 đến 1953,
ông học tiếng Trung Hoa và sử học tại Đại học Washington. Sau đó
ông làm cán bộ y tế cho bộ Hải quân Mỹ. Làm y tế được bốn năm, ông
quyết định đi học trở lại và tốt nghiệp bằng cử nhân khoa Đông
phương học.
Nhờ học về
phương Đông, ông được làm quen với Đạo Phật qua sách vở; và bốn năm
làm y tế trong Bộ Hải quân Mỹ đã cho ông cơ hội tiếp xúc với Giáo hội Phật
giáo Nhật Bản. Sau đó, với tâm nguyện phục vụ con người, ông làm công tác
xã hội từ thiện cho Hội hồng thập tự Mỹ. Năm 1961, ông tiếp tục học chương
trình cao học về văn hóa các nước Nam Á như Ấn độ, Tích Lan, Miến điện, Thái
lan v.v... tại Đại học California ở Berkeley và tốt nghiệp thạc sĩ (Master of
Arts) năm 1963.
Từ năm
1964 đến 1966, ông là tình nguyện viên của Đoàn Hòa Bình Mỹ (Peace Corps)
dạy tiếng Anh ở Sabah thuộc Bắc Borneo.
Năm 1966,
ông đến Thái Lan, tìm hiểu thêm về đạo Phật, tập tu thiền và sau đó
thọ giới sa di tại một ngôi chùa quê hẻo lánh thuộc tỉnh Nong Khai,
miền đông bắc Thái Lan. Tháng 5 năm 1967, sa di Sumedho thọ giới tỳ kheo.
Từ đó ông Robert Jackman trở thành Đại đức Sumedho. Trong thời gian
nầy, sư sống độc cư trong rừng và chủ yếu hành thiền chỉ (2).
Dù đã đạt những tầng thiền cao (Jhanas), sư vẫn cảm thấy
cần được hướng dẫn thêm để có những tiến bộ thật sự. Nhờ có
duyên may gặp ngài Ajahn Chah, một trong những cao tăng nổi tiếng của Thái Lan,
sư rời Nong Khai về tu học thiền minh sát (Vipassana) với ngài Ajahn
Chah tại tu viện Wat Nong Pah Pong, thuộc tỉnh Ubon trong hơn 10 năm (3).
Trong thời
gian nầy, từ năm 1967 đến 1977, sư Sumedho tu học tại nhiều tu viện do ngài
Ajahn Chah sáng lập và đi hành hương ở Ấn Độ vào cuối năm
1973. Năm 1975, ngài Ajahn Chah thành lập và bổ nhiệm làm sư trụ trì tu
viện Wat Bung Wai trong rừng để hướng dẫn các tăng ni và Phật tử phương
Tây đến Thái Lan tu tập. Wat Bung Wai được sự ủng hộ nhiệt thành
của các Phật tử Thái Lan. Vì thế, sau đó không lâu, Wat Bung Wai dưới sự
hướng dẫn của sư trở thành Tu viện Phật giáo quốc tế trong rừng đầu
tiên của Thái Lan.
Năm 1976,
sư Sumedho trở về Mỹ thăm cha mẹ và trên đường đi, sư ghé thăm
nước Anh và được mời đến ở một tu viện Phật giáo ở Hamstead, Luân
Đôn. Năm sau, nhận lời mời của các Phật tử Anh, sư trở lại Anh và đã
ở lại đó giúp truyền bá giáo pháp cho đến ngày nay. Với công phu cần mẫn
và tâm đạo nhiệt thành, sư đã giúp thành lập hai tu viện Phật giáo
lớn ở Anh. Đó là tu viện Cittaviveka tại Chithurst, West Sussex và tu viện
Amaravati ở Great Gaddensden, Hertfordshire. Hiện nay, sư Sumedho là viện chủ
tu viện Amaravati và là vị sư hướng dẫn của hơn 100 tu viện và hàng trăm tăng
ni thuộc hệ phái Phật giáo nguyên thủy tại Anh, Tân Tây Lan, Thụy Sĩ, Ý và Mỹ.
Ông Jack Kornfield, một học giả Phật giáo người Mỹ, thiền sư, và cũng đã
từng là bạn đồng tu với sư cho rằng ở phương Tây, Ajahn Sumedho là vị viện
chủ Phật giáo nguyên thủy có uy tín và thành công nhất và là người đãđặt
nền tảng cho sự phát triển của Giáo hội Phật giáo nguyên thủy phương Tây (4).
(1) Ajahn là
phiên âm từ tiếng Pali Thái "Acariya" nghĩa là vị thầy hay
người hướng dẫn. Ở các tu viện Thái lan, Ajahn cũng có nghĩa
là người có đức độ lớn. Ajahn có thể dịch sang tiếng Việt
là Đại đức.
(2) Thiền
chỉ (Samatha) còn được gọi là thiền vắng lặng. Đó là hành thiền
theo 40 đề mục nhằm mục đích đạt được tâm vắng lặng và bình an do chế ngự được
một số phiền não và chướng ngại.
(3) Thiền
minh sát (Vipassana) nguyên nghĩa là "Thấy bằng nhiều cách".
Đó là năng lực quán sát đối tượng thân tâm qua ánh sáng của vô thường, khổ não
và vô ngã.
(4) Ajahn
Sumedho, Teachings of a Buddhist Monk, Buddhist Publishing Group,
Ashprington, U.K. 2000. tr. 17
Xem tiếp:
LỜI MỞ ĐẦU
0 nhận xét:
Đăng nhận xét