Hỏi: Đạo Phật là gì?
Đáp: Danh từ Đạo Phật (Buddhism)
xuất phát từ chữ “Budhi” nghĩa là “tỉnh thức” và như vậy Đạo Phật là
triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh
nghiệm thực chứng của Ngài Sĩ-Đạt-Đa Cồ-Đàm, được biết như một vị Phật,
đã tự mình giác ngộ ở tuổi ba mươi sáu. Đến nay Đạo Phật đã có mặt trên
2500 năm và có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Hàng trăm năm
về trước, Đạo Phật đã chính thức là một nền triết học của Á châu, tuy
nhiên ngày nay đã phát triển và có tín đồ ở khắp châu Âu và châu Mỹ.
HỎI : Như vậy, Đạo Phật có phải là một triết học không ?
Đáp:
Danh từ triết học – philosophy – bắt nguồn từ hai chữ “philo” nghĩa là
“tình thương” và “sophia” nghĩa là”trí tuệ”. Vậy triết học là tình
thương của trí tuệ hoặc tình thương và trí tuê. Cả hai ý nghĩa nầy đều
diễn tả một đạo Phật toàn bích. Đạo Phật khuyên dạy con người nên cố
gắng phát triển khả năng tri thức của mình đến chỗ cùng tột để có thể
hiểu biết một cách rõ ràng. Đạo Phật cũng dạy chúng ta làm lớn mạnh lòng
từ bi và lòng nhân ái để mình có thể trở thành một người bạn chân thành
đối với tất cả chúng sanh. Vì thế Đạo Phật là một triết học, nhưng
không chỉ là một triết học mà là một triết học siêu việt.
Hỏi: Đức Phật là ai?
Đáp: Vào năm 624 trước Tây Lịch, một hoàng nhi đã ra đời tại một vương quốc
thuộc miền Bắc Ấn Độ. Vị hoàng nhi ấy đã lớn lên trong nhung lụa và xa hoa,
nhưng cuối cùng sớm nhận ra rằng tiện nghi vật chất và sự yên bình của thế
gian không đủ để bảo đảm hạnh phúc. Chàng đã xúc động sâu xa bởi những cảnh
khổ đau mà chàng đã thấy ở khắp mọi nơi, và quyết tâm tìm một lời giải đáp đưa
đến hạnh phúc cho nhân loại. Năm hai mươi chín tuổi, chàng từ giả vợ và con, và
tìm học với các bậc đạo sư vĩ đại đương thời. Các vị này đã dạy cho chàng
rất nhiều nhưng không có người nào thật sự biết rõ được nguyên nhân khổ đau
của kiếp người và phương cách vượt thoát khổ đau. Cuối cùng, sau sáu năm
tu học và hành thiền, chàng đã đạt được một kinh nghiệm mà tất cả mọi
phiền não vô minh được đoạn trừ và ngài đã hoát nhiên giác ngộ. Kể từ ngày ấy,
Ngài được tôn xưng là Phật-đà (Buddha), một bậc Giác Ngộ. Ngài tiếp tục ở lại
thế gian trong 45 năm nữa, chu du khắp miền Bắc Ấn độ để truyền dạy cho mọi người
những gì mà ngài đã chứng ngộ. Lòng từ bi và đức tính kham nhẫn của Ngài là
một
sự kỳ diệu đã khiến cho hàng ngàn người theo làm đệ tử của Ngài . Ở
tuổi tám mươi, tuy già và bệnh, nhưng vẫn hạnh phúc và thanh thản, cuối
cùng ngài đã viên tịch.
Hỏi: Đức Phật vô trách nhiệm chăng khi Ngài rời bỏ vợ con của mình?
Đáp:
Điều đó không dễ dàng chút nào khi Đức Phật rời bỏ gia đình. Ngài đã
phải lo lắng và do dự trong một thời gian dài trước khi quyết định ra
đi. Lúc đó, Ngài có một sự chọn lựa, hoặc là hiến dâng đời mình cho gia
đình, hoặc cho thế gian. Cuối cùng, với lòng từ bi rộng lớn đã khiến
ngài hy sinh đời mình cho thế gian , và cả thế gian đều được lợi lạc từ
sự hy sinh của ngài. Do vậy, đó không phải là vô trách nhiệm. Có thể nói
đó là một sự hy sinh đầy ý nghĩa nhất từ trước đến nay.
Hỏi: Đức Phật đã nhập diệt thì làm sao Ngài có thể giúp đỡ chúng ta?
Đáp:
Ông Faraday, người phát minh ra điện, đã mất nhưng những gì ông phát
minh vẫn còn có ích cho chúng ta. Ông Luis Pasteur, người tìm ra phương
pháp điều trị nhiều bệnh tật, đã qua đời, nhưng các khám phá y khoa của
ông vẫn cứu được nhiều mạng sống. Ông Leonardo da Vinci, người sáng tạo
ra những kiệt tác nghệ thuật, cũng đã khuất bóng, nhưng tác phẩm của ông
vẫn đem lại nhiều hứng khởi và niềm vui cho mọi người. Những thánh nhân
và anh hùng đã từ giã cõi đời hàng thế kỷ nhưng khi chúng ta đọc lại
những kỳ tích và thành tựu của họ, chúng ta vẫn có nhiều hứng khởi để
noi theo những gì họ đã làm. Đúng thế, Đức Phật đã diệt độ, nhưng 2500
năm sau lời giáo huấn của Ngài vẫn giúp được nhân loại, gương lành của
Ngài vẫn tạo nhiều cảm hứng cho mọi người, lời dạy của Ngài vẫn có thể
cải tạo được cuộc sống. Chỉ có Đức Phật mới có thể có một tiềm lực thu
hút như thế qua nhiều thế kỷ sau khi Ngài đã nhập diệt.
Hỏi: Đức Phật có phải là một vị thần linh không?
Đáp: Không, Ngài không phải là một vị thần linh (god). Ngài cũng không tuyên bố
rằng mình là thần linh, là con của thần linh, hoặc ngay cả là một sứ giả của
thần linh. Ngài là một con người đã tự toàn thiện mình, và dạy rằng
nếu chúng ta noi theo gương Ngài, chúng ta cũng có thể tự hoàn
thiện được như Ngài.
Hỏi: Nếu Đức Phật không phải là thần linh, tại sao người ta thờ cúng Ngài?
Đáp:
Có nhiều loại thờ cúng khác nhau, khi người ta thờ một vị thần, họ tán
thán cung kính và cúng dường vị ấy, để cầu xin ân sủng. Họ tin tưởng
rằng vị thần linh ấy sẽ nghe thấy sự tán dương, tiếp nhận sự cúng dường
và đáp ứng lại lời cầu xin của họ. Người Phật tử không theo kiểu thờ
cúng này. Cũng có các loại thờ cúng khác như khi chúng ta bày tỏ lòng
tôn kính đối với một người nào đó hay điều gì khiến chúng ta ngưỡng mộ.
Khi vị thầy giáo bước vào lớp, chúng ta đứng lên; khi gặp một viên chức
cao cấp, chúng ta bắt tay; khi một bài quốc ca được trổi lên, chúng ta
nghiêm chào. Đó là tất cả những cử chỉ cung cách tôn kính tỏ bày lòng
khâm phục của chúng ta đối với người hay vật. Cách thờ cúng theo Phật
giáo là thực hành. Một pho tượng Phật ngồi với bàn tay nhẹ nhàng trong
mãnh y và nụ cười từ ái nhắc nhở chúng ta cố gắng phát triển sự an lạc
và yêu thương trong mỗi chúng ta. Mùi thơm của hương trầm nhắc nhở chúng
ta về sự ảnh hưởng của đức hạnh lan tỏa khắp nơi, ngọn đèn nhắc nhở
chúng ta đến ánh sáng của hiểu biết, và những bông hoa sớm tàn úa nhắc
cho chúng ta lẽ vô thường. Khi đảnh lễ cuối đầu, chúng ta bày tỏ lòng
biết ơn đối với Đức Phật về những lời dạy của Ngài. Đó là phương cách
thờ cúng của người Phật tử.
HỎI : Nhưng tôi nghe người ta nói rằng nhiều Phật tử vẫn thờ cúng thần tượng ?
ĐÁP
: Những lời phát biểu như vậy chỉ phản ảnh sự hiểu lầm của người đang
hành trì. Từ điển định nghĩa từ “idol” là “một hình ảnh hay một pho
tượng được tôn thờ như một thần linh”( an image or statue worshipped as a
god) . Như chúng ta đã biết, người Phật tử không bao giờ tin rằng Đức
Phật là một vị thần linh. Vậy làm sao người Phật tử có thể tin rằng một
khối gỗ hay một mảng kim loại kia lại là một vị thần ?
Mỗi tôn
giáo đều dùng một biểu tượng nào đó để bày tỏ quan điểm và niềm tin của
riêng họ. Trong Đạo Lão (Taoism), Âm dương được dùng để làm biểu tượng
hài hòa và đối kháng. Đạo Sikh (1), thanh gươm được xem là biểu tượng
cho sự đấu tranh tinh thần. Đạo Cơ-đốc (Christianity), con cá dùng làm
biểu tượng cho sự hiện hữu của Chúa và cây Thánh giá dùng làm biểu trưng
cho sự hy sinh của Chúa. Và Phật giáo, tượng Phật được xem như những
biểu tượng của sự hoàn thiện nhân cách con người. Tượng Phật cũng nhắc
nhở ta về tính nhân bản trong giáo lý nhà Phật. Thật vậy, Phật giáo luôn
xem con người là trung tâm chứ không phải là thần linh, điều đó nhắc
nhở chúng ta phải tìm sự toàn hảo và hiểu biết ở bên trong chứ không
phải vẻ bề ngoài của hình tượng. Vì thế nói rằng người Phật tử tôn thờ
hình tượng là không đúng.
HỎI : Tại sao người ta đốt giấy vàng bạc và làm những chuyện lạ trong chùa ?
ĐÁP
: Nhiều việc thấy lạ nếu ta không tìm hiểu về chúng. Tốt hơn nên gạt bỏ
những chuyện lạ ấy mà nên cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của chúng. Tuy
nhiên, trong thực tế, đôi khi người Phật tử đã áp dụng những điều mê tín
dị đoan và hiểu lầm hơn là lời dạy của Phật. Và những việc hiểu lầm như
vậy không phải chỉ riêng ở Phật giáo mà thỉnh thoảng cũng được thấy ở
những tôn giáo khác. Đức Phật đã dạy rất rõ ràng và chi tiết và nếu
không hiểu giáo lý của Ngài thì không thể đổ lỗi cho Ngài. Có lời dạy
rằng:
Nếu một người đau khổ vì bệnh hoạn mà không chịu để điều
trị, thậm chí người ấy có người thầy thuốc trong tầm tay. Đó không phải
là lỗi của người thầy thuốc..
Cũng vậy, nếu một người bị hành hạ
và đau khổ bởi phiền não mà không tìm sự giúp đỡ của Đức Phật, thì đó
cũng không phải là lỗi của Ngài. (JN 28-9)
Không phải phật giáo mà
bất cứ tôn giáo nào cũng không thể giúp cho họ nếu bản thân họ không
thực hành đúng pháp. Nếu bạn muốn biết rõ ràng và chính xác về chân lý
của Đạo Phật , thì hãy đọc những lời dạy của Phật hoặc học hỏi với người
hiểu đúng giáo lý này.
HỎI : Nếu Phật giáo quá tốt đẹp như vậy, tại sao vẫn còn nhiều quốc gia nghèo khổ ?
ĐÁP
: Ý bạn muốn nói nghèo khổ về kinh tế ? Đó là sự thật, vì vẫn còn nhiều
quốc gia Phật giáo chưa phát triển về mặt này. Nhưng nếu nghèo mà ý bạn
muốn ám chỉ về “phẩm chất của cuộc sống” thì có lẽ nhiều nước theo Phật
giáo lại rất giàu. Chẳng hạn nước Mỹ, một quốc gia cường thịnh về kinh
tế và quyền lực, nhưng lại là một trong những quốc gia có mức độ tội
phạm cao nhất thế giới, hàng triệu người già bị con cái lãng quên và
chết trong cô độc tại các viện dưỡng lão; nạn bạo lực ở trong gia đình
và lạm dụng tình dục trẻ em là vấn đề nóng bỏng. Cứ ba cặp cưới nhau có
một cặp ly dị; sách báo đồi trụy dễ dàng tìm thấy. Vì vậy, giàu theo
nghĩa có tiền nhưng lại nghèo về “phẩm chất cuộc sống”. Bây giờ chúng ta
thử quay sang Miến Điện, một quốc gia có nền kinh tế lạc hậu, nhưng cha
mẹ được con cái tôn vinh và kính trọng; tỉ lệ tội phạm tương đối thấp;
vấn đề ly dị và tự tử hầu như không nghe thấy; việc bạo lực trong gia
đình, lạm dụng trẻ em, sách báo kích dục và nạn mãi dâm không thể có .
Một nền kinh tế chậm tiến nhưng lại có một nền tảng đạo đức xã hội cao
hơn một quốc gia như Hoa kỳ. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn nhìn thấy
những quốc gia Phật giáo theo cái nghĩa kinh tế như vậy, thì một trong
những quốc gia giàu có nhất và có nền kinh tế năng động nhất thế giới
hiện nay là Nhật Bản, nơi có 93% dân số là tín đồ theo Phật giáo.
HỎI : Tại sao bạn không thường nghe người Phật tử làm công tác từ thiện xã hội ?
ĐÁP
: Có lẽ người Phật tử không cảm thấy cần thiết phải khoe khoang về
những điều tốt của họ. Nhiều năm trước đây ông Nikkyo Niwano (2), vị
lãnh đạo Phật giáo Nhật Bản đã được trao giải thưởng Templeton qua việc
ông vận động liên kết hòa hợp tôn giáo. Tương tự, một tăng sĩ người Thái
đã nhận giải thưởng Magsaysay cho chiến dịch bài trừ tệ nạn ma túy. Năm
1987, Thượng tọa Kantayapiwat, người Thái Lan, cũng nhận một giải
thưởng Nhi đồng Hòa Bình của Na Uy cho công việc từ thiện của ngài trong
nhiều năm giúp đỡ trẻ bụi đời ở vùng nông thôn. Và hiện nay, các hội
đoàn Phật giáo phương Tây đang thực hiện một số công tác từ thiện ở các
vùng nông thôn Ấn Độ, họ đang xây dựng trường học, Trung tâm điều trị
tâm thần thiếu nhi, trạm xá và những khu công nghiệp nhẹ. Người Phật tử
thấy rằng việc giúp đỡ cho người khác như là một pháp môn tu tập của họ,
nhưng họ cho rằng công việc ấy nên thực hiện trong thầm lặng, không cần
phô trương. Chính vì thế mà bạn không nghe thấy nhiều về các hoạt động
từ thiện của họ.
HỎI : Tại sao có nhiều tông phái khác nhau trong Phật giáo ?
ĐÁP
: Có nhiều loại đường khác nhau : đường vàng, đường trắng, đường kết
tinh, đường cục, đường cát, đường phèn… nhưng tất cả chỉ là đường và chỉ
có một vị ngọt. Nó được sản xuất từ nhiều hình thức khác nhau để nó có
thể sử dụng nhiều cách khác nhau. Phật giáo cũng thế, Phật giáo Nguyên
thủy, Thiền tông , Tịnh độ tông, Du già tông, Mật tông . Phật giáo quả
thật đã phát triển qua nhiều hình thức khác nhau để nó hiện hữu và thích
ứng với những nền văn hóa khác nhau. Qua nhiều thế kỷ Phật giáo có thể
tồn tại phù hợp với mọi thế hệ. Đứng trên phương diện bề mặt, Phật giáo
dường như có khác nhau, nhưng tâm điểm dị biệt ấy vẫn là giáo lý Tứ đế
và Bát chánh đạo. Tất cả những tôn giáo chính, kể cả Phật giáo, đã từng
bị chia ra nhiều tông phái khác nhau. Tất cả những tôn giáo chính, Phật
giáo bao gồm những hình thái và tông phái. Những sự khác nhau của các
tông phái ấy không bao giờ đưa tới xung đột nhau, và cho tới nay chưa
bao giờ biểu lộ sự thù địch với nhau, họ đến với nhau ở những chùa viện
khác và cùng cầu nguyện với nhau. Lòng bao dung, và hiểu nhau như thế
quả thật là hiếm thấy.
HỎI : Bạn luôn nghĩ tốt về Đạo Phật. Tôi cho rằng bạn nghĩ Đạo của bạn đang theo là đúng còn các đạo khác là sai.
ĐÁP
: Không có một Phật tử nào hiểu lời Phật dạy mà lại nghĩ các tôn giáo
khác là sai. Không một ai có tâm hồn cởi mở lại để tâm phán xét các tôn
giáo khác. Việc trước tiên bạn để tâm nghiên cứu những tôn giáo khác là
để biết có bao nhiêu điểm tương đồng .Tất cả các tôn giáo đều thừa nhận
rằng đời sống con người hiện tại không được thỏa mãn. Tất cả đều tin
rằng nếu hoàn cảnh của con người phải cải thiện thì cách cư xử và quan
điểm của họ cần phải được thay đổi. Tất cả đều truyền dạy về một nền đạo
đức học về yêu thương, nhân ái, kiên nhẫn, rộng lượng và có trách nhiệm
với xã hội, và tất cả đều chấp nhận có sự hiện hữu trong một vài hình
thức tuyệt đối.
Họ sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhiều tên gọi
khác nhau và nhiều biểu tượng khác nhau để mô tả và giải thích những sự
việc này. Và chỉ khi nào họ bám chặt vào đường hướng của mình bằng tâm
lượng hẹp hòi để nhìn sự việc thì sự ích kỷ, ngạo mạn và tự tôn liền
phát sinh.
Cứ tưởng tượng một người Anh, một người Pháp, một người
Trung quốc và một người Nam Dương. Tất cả đều nhìn vào một cái ly nước .
Người Anh nói “Đây là cái ‘cup'”, người Pháp nói “Không phải, nó là cái
‘tasse'”, người Hoa bảo “cả hai ông đều sai hết, nó chính là ‘ pei'”.
Và người Nam Dương cười lớn nói rằng : “Các anh ngớ ngẫn làm sao, nó là
cái ‘cawan'”. Người Anh lật quyển từ điển ra và chỉ cho các người kia
“Tôi có thể chứng minh đây là cái ‘cup’, quyển từ điển của tôi đã viết
như thế”. Người Pháp cãi lại “từ điển của tôi nói rõ đó là ‘tasse’.
Người Hoa lớn tiếng cãi lại “Từ điển của chúng tôi mới chính xác, vì nó
có hàng ngàn năm nay rồi, lâu hơn tất cả các từ điển của các anh, vả lại
người nói tiếng Hoa nhiều hơn người nói ngôn ngữ của mấy anh, vì thế
tôi nói nó là pei là chính xác nhất”. Trong lúc những người này đang cãi
cọ và tranh luận, một người Phật tử bước tới bưng lấy cái ly nước lên
uống. Sau khi vị ấy uống xong, vị ấy nói : “Dù các anh có gọi nó là
‘cup’, ‘tasse’, ‘pei’ hay ‘cawan’ , mục đích của cái ly là dùng để uống
nước, các anh hãy chấm dứt tranh luận và hãy uống nước để bớt cơn khát
của các anh đi!”. Đây là thái độ của người Phật tử đối với các tôn giáo
khác.
HỎI : Đạo Phật có phải là khoa học không ?
ĐÁP
: Trước khi trả lời câu hỏi này, tốt nhất chúng ta hãy tìm hiểu về định
nghĩa của từ khoa học, theo từ điển giải thích khoa học là “Kiến thức
có thể được hình thành theo một hệ thống, cái tuỳ thuộc vào sự trắc
nghiệm các dữ kiện và xác nhận được quy luật tự nhiên, một phần tùy
thuộc vào những gì được nghiên cứu chính xác”.
Trong Phật giáo có
nhiều phương diện không phù hợp với định nghĩa này. Nhưng giáo lý cốt
lõi của Đạo Phật, Tứ Diệu Đế (Four Noble Truths) thì hẳn đã phù hợp.
Chân lý thứ nhất khổ đau là một kinh nghiệm và có thể xác định được.
Chân lý thứ hai chỉ rõ rằng đau khổ có nguyên nhân tự nhiên của tham ái
mà nó có thể định nghĩa, trải qua và đo lường được. Không cần cố gắng
giải thích khổ đau theo thuật ngữ , quan điểm siêu hình hay huyền hoặc.
Chân lý thứ ba, chấm dứt khổ đau không nương nhờ vào thần linh tối cao,
vào niềm tin hay cầu nguyện mà đơn giản chỉ là loại bỏ nguyên nhân của
khổ đau. Đó là việc hiển nhiên. Chân lý thứ tư, con đường đưa đến sự
chấm dứt khổ đau, một lần nữa cũng không có gì siêu hình mà tùy thuộc
vào việc thực hiện theo phương pháp đặc biệt. Và hơn nữa thái độ phải
cởi mở để xét nghiệm.
Phật giáo không thừa nhận quan điểm về một
đấng cao cả , giống như khoa học và giải thích nguồn gốc và sự vận hành
của vũ trụ theo quy luật tự nhiên. Hẳn những điều này là chứng minh theo
tinh thần khoa học. Một lần nữa, chúng ta lại thấy tinh thần khoa học
trong Phật giáo càng rõ ràng hơn qua lời khuyên của Đức Phật, rằng chúng
ta không nên tin tưởng một cách mù quáng mà ngược lại phải đặt vấn đề ,
tìm hiểu và thẩm tra, nhờ vào kinh nghiệm của chính mình rồi mới tin,
có như thế tính chất khoa học mới được rõ ràng. Đức Phật dạy :
“Đừng
tin tưởng theo huyền bí hay truyền thống. Đừng tin tưởng theo tin đồn
đãi hay kinh điển, đừng tin tưởng theo lời đồn hay những gì hợp lý, đừng
tin tưởng theo khuynh hướng của một ý niệm nào đó , hay do một ai đó có
khả năng. Và đừng tin tưởng theo ý tưởng ” vị ấy là thầy của ta”. Nhưng
khi chính các vị biết rằng điều ấy là tốt không làm tổn hại ai, đó là
sự sáng suốt đáng tán dương và khi thực hành và theo dõi rằng nó sẽ mang
đến hạnh phúc, rồi hãy tin tưởng theo”. (AI 188)
Vì thế chúng ta
có thể nói rằng mặc dù Phật giáo không hoàn toàn khoa học, nhưng hẳn đã
mang tính khoa học mạnh mẽ và có tính khoa học hơn các tôn giáo khác.
Chính ông Albert Einstein (1879-1955) một nhà khoa học vĩ đại nhất của
thế kỷ hai mươi đã nói về tính khoa học của Phật giáo như sau :
“Tôn
giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi tinh thần
linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện
tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất
từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trong cái nhất thể đầy đủ ý
nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó. Và nếu có bất cứ một
tôn giáo nào có thể đương đầu với những nhu cầu của nền khoa học hiện
đại, thì đó là Phật giáo vậy.”
Ghi chú:
Sikhism: một đạo phát triển từ Ấn giáo từ thế kỷ 16, chỉ tín ngưỡng một vị thần.
[01] Ðạo Phật là gì?
[02] Khái niệm căn bản của Phật giáo
[03] Phật giáo và quan niệm Thượng Ðế
[04] Năm giới
[05] Tái sinh
[06] Thiền định
[07] Trí tuệ và Từ bi
[08] Ăn chay
[09] Vận may và số mạng
[10] Trở thành Phật tử
Nguyên tác: Ven. Shravasti Dhammika
Thứ Hai, 10 tháng 11, 2014
TẠI SAO THỜ PHẬT?
Đăng ký:
Đăng Nhận xét
(Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét