(Những Câu Chuyện Tái Sanh Ly Kỳ và Trẻ Con Thần Ðồng) [1]
Ðã có chăng đời sống trước khi được sanh ra? Sẽ có chăng đời sống sau khi chết? Ðây là những vấn đề mà ta phải đề cập đến một cách nghiêm chỉnh và vô tư. Những vấn đề có tầm triết lý quan trọng như thế ấy phải được mỗi người suy tư khách quan khảo sát, không để cho thành kiến hay tin tưởng riêng tư của mình ảnh hưởng. Không nên vội vã chấp nhận hay bác bỏ điều gì khi chỉ nhìn thấy bề mặt. Phải xem xét tỉ mỉ, quán trạch tận tường, trước khi đi đến kết luận. Có nhiều hiện tượng tâm lý lạ lùng xảy diễn ngay trước mắt ta mà nhà khoa học không ở trong vị trí có thể thông hiểu hay giải thích. Dầu sao, các nhà khoa học không vội vã phủ nhận điều mà họ không thể giải thích. Trong luồng trôi chảy của tâm và cơ thể con người còn nhiều kỳ diệu để cho các khoa học gia bận tâm khảo sát trong nhiều năm.
Có chăng một Thần Linh Tạo Hóa? Linh hồn có thật sự hiện hữu không? Có chăng một kiếp sống quá khứ và đời sống sau khi chết? Ðiều gì xảy đến con người khi họ lìa đời, rời nơi cư ngụ tạm thời này? Kiếp sống vị lai sẽ xảy diễn ở nơi nào và bản chất của nó ra sao? Ðây cũng vậy, là vài vấn đề trong những vấn đề đã gây khó khăn và rối loạn cho người suy tư, sáng suốt, xuyên qua các thời đại.
Trước khi cố gắng trình bày lời giải đáp của người Phật tử cho câu hỏi: "Có chăng đời sống sau khi chết?" một giáo lý vô cùng quan trọng và rất căn bản trong Phật Giáo phải được sáng tỏ, bởi vì nếu không thấu triệt tận tường giáo lý này thì quan điểm của Phật Giáo về đời sống sau khi chết ắt vô ý nghĩa. Toàn thể giáo huấn của Ðức Phật tuyệt đối không ý niệm một Thần Linh Tạo Hóa vĩnh cửu, ban thưởng và hình phạt những việc làm tốt hay xấu của chúng sanh, và một tự ngã trường tồn hay một bản ngã xem như một thực thể bất diệt. Không chấp nhận hai điểm ấy -- ý niệm về Thần Linh Tạo Hóa và một bản ngã trường tồn bất biến -- là hai điểm đặc thù của Phật Giáo, Nam Tông hay Bắc Tông.
Có chăng một đời sống sau khi chết? không phải là câu hỏi được nêu lên ngày hôm nay hay hôm qua. Những tôn giáo, cổ xưa và hiện đại, những hệ thống triết học -- ngoại trừ thuyết duy vật, vốn chủ trương rằng con người là không có gì và khi chết sẽ tuyệt diệt -- đều có đề cập đến vấn đề tối quan trọng này dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Phật Giáo chủ trương có một chuỗi dài những kiếp sống, đời sống lặp đi lặp lại, hay để dùng một danh từ thường được dùng trong Phật Giáo, vòng luân hồi (samsàra). Ðây không phải giáo thuyết cho rằng sau kiếp sống này nhất định chỉ còn một kiếp nữa.
Một cách hợp lý, có thể có bốn quan điểm khác nhau trong vấn đề tái sanh, tức sau kiếp sống này vẫn còn sự sống. Chúng ta có thể nói: i. rằng sau khi chết chúng ta sẽ còn sống sót dưới hình thức "đầu thai" vào một cảnh vô hình, tức thuyết cho rằng sau khi chết chỉ còn một kiếp sống; ii. rằng chết là tuyệt diệt, tức thuyết duy vật, phủ nhận mọi sự sống sau khi chết; iii. rằng không thể tìm ra một giải đáp thỏa đáng cho câu hỏi này, hoặc không có giải đáp thỏa đáng, tức thuyết hoài nghi hoặc chỉ tin những gì giác quan có thể thực nghiệm; iv. rằng ta có thể trở lại trong nhiều kiếp sống kế tiếp trên thế gian hay trong những cảnh giới khác, tức thuyết tái sanh. Kinh điển Phật Giáo ghi nhận nhiều giả thuyết khác nhau của mỗi quan điểm này.
Người theo chủ nghĩa duy vật ở mọi thời đại tin rằng không có chi hiện hữu ngoài vật chất. Theo sự tin tưởng như vậy, họ không quan tâm đến vấn đề có đời sống trước khi sanh, và sau khi chết vẫn có đời sống. Ðối với họ, chí đến cái tâm cũng là sản phẩm của vật chất, và sau khi cơ thể vật chất này tan rã "cá tính con người" cũng chấm dứt.
Thuyết tái sanh trong Phật Giáo, hay sự trở-thành-trở-lại (punabbhava), bắt nguồn từ sự Giác Ngộ của Ðức Phật, không phải từ một truyền thống tín ngưỡng nào của dân tộc Ấn Ðộ. Như đã được ghi trong kinh điển Phật Giáo (Mahà-saccaka Sutta, Majjhima Nikàya, Trung A Hàm), chính trong đêm Thành Ðạo Ðức Phật thành đạt khả năng thông suốt các tiền kiếp của Ngài. Khi tâm hoàn toàn lắng động, sáng tỏ, trong sạch và không còn mảy may khuyết điểm, đã tẩy sạch mọi ô nhiễm, nhu thuận và thuần thục, kiên cố vững chắc và không thể bị khuấy động, Ngài chứng đắc Túc Mạng Minh, biết rõ các tiền kiếp của mình.
Ngài dùng thiên nhãn thông (dibbacakkhu) có thể trông thấy, ngoài những sự vật khác, những chúng sanh sống trở lại trong nhiều cảnh giới khác nhau, mỗi người tùy theo nghiệp, hay hành động của mình.
Chúng ta có thể nhận xét một cách lý thú rằng những khảo cứu trong ngành siêu tâm lý học hiện đại đã chấp nhận cái được gọi là thần thông, hay những hiện tượng siêu thường. Trong ngành tâm lý học thực nghiệm, càng ngày người ta càng chú tâm nhiều đến những gì tri giác cảm nhận ngoài giác quan, và thành quả thâu gặt hình như đã vượt ra ngoài mọi hiểu biết thông thường.
Những trường hợp trẻ con hồi nhớ tiền kiếp đã được đem ra ánh sáng, không phải chỉ trong các nước Á Châu như Miến Ðiện hay Ấn Ðộ, Tích Lan và các quốc gia Phương Ðông, mà trong những quốc gia Tây Phương cũng vậy. Bác Sĩ Ian Stevenson, M.D. Ðại Học Virginia, Hoa Kỳ, đã trình bày các thành quả của những cuộc khảo sát và nghiên cứu của ông trong nhiều quyển sách, hai trong những quyển ấy là: Twenty Cases Suggestive of Reincarnation và Sri Lanka Cases of Reincarnation Type.
Hai quyển sách khác cũng đáng được chú tâm đến là: Reincarnation -- An East-West Anthology và Reincarnation in World Thought -- A Living Study of Reincarnation in all Ages, do Joseph Head và S.L. Cranton chọn lọc từ những tôn giáo, triết học, khoa học, và những đại tư tưởng gia cổ kim trên thế giới, sưu tập và biên soạn. Sách do nhà xuất bản Julian Press, Inc., New York ấn hành vào những năm 1961 và 1967.
Các triết gia thời cổ Hy Lạp như Empedocles và Pythagoras đã từng dạy về thuyết tái sanh và triết học của Plato, dành một phần quan trọng thừa nhận thuyết này.
Trường Hợp Hiển Nhiên Về Ðời Sống Sau Khi Chết
Các khám phá của ngành tâm lý học trong những ngày gần đây chứng minh rằng dưới sức thôi miên mạnh mẽ thâm sâu, một người đứng tuổi có thể sống trở lại những ngày thơ ấu của mình, và kinh nghiệm những gì đã được chôn vùi sâu ẩn trong tiềm thức. Những kỷ niệm của thời sơ sinh, và trong vài trường hợp, của thời kỳ trước khi sanh, được khơi dậy và phơi bày bề mặt bằng cách này. Ðôi khi người bị thôi miên có thể hồi nhớ những kinh nghiệm trong thời thơ ấu nhất, và trong vài trường hợp, kinh nghiệm của những kiếp sống quá khứ. Những sự kiện này đã được kiểm nhận. Rồi có trường hợp những trẻ em không bị thôi miên, hồn nhiên hồi nhớ tiền kiếp của mình. Trong quyển sách của ông đề tựa The Evidence of Survival from Claimed Memories of Former Incarnations Bác Sĩ Stevenson có đề cập đến nhiều trường hợp hồn nhiên hồi nhớ các tiền kiếp. Ông tường thuật với nhiều chi tiết những trường hợp đã xảy diễn tại những quốc gia khác nhau như Cuba, Ấn Ðộ, Pháp và Sicily. Trong phần II của quyển sách ông phân tách tỉ mỉ tánh cách xác thực của những trường hợp trên, nhằm khảo sát xem có thể chăng có những giải thích sự hồi nhớ tiền kiếp như bằng cách giả mạo, hồi nhớ nguồn gốc chủng tộc, siêu tiềm thức, khả năng nhận thức quá khứ và tương lai.
Những công trình khảo cứu trong lãnh vực tâm linh học cũng cho thấy trường hợp hiển nhiên chứng minh có sự sống sau khi chết. Phật Giáo chủ trương rằng ta có thể tái sanh vào một cảnh giới vô hình, tùy theo nghiệp -- hay những hành động bằng thân, khẩu, ý -- đã tạo. Giờ đây, niềm tin rằng phần tâm linh sẽ tiếp tục diễn tiến sau khi chết sẽ đúng thực đến mức độ nào? Ðiều ấy có thể kiểm chứng không? Vài người có thể hỏi làm sao ta biết được rằng sẽ còn sự sống sau khi chết? Ai là người đã trở lại từ cõi chết để nói cho ta biết cảnh giới kế liền sau khi chết là thế nào? Những người ấy hẳn không hay biết gì đến những khảo nghiệm có tánh cách khoa học mà những tổ chức như hội London Psychical Research Society, được thành lập từ năm 1882 do một nhóm khoa học gia của Ðại Học Cambridge, đã thực hiện và xác nhận rằng hiển nhiên có tái sanh.
Ðịnh Luật Vô Thường Nghiêm Khắc
"Ðầu thai", reincarnation, một danh từ quen thuộc hơn đối với người Tây Phương, có nghĩa là phần tâm linh, được xem như một thực thể tinh thần đơn thuần, sống trở lại trong một thể xác (incarnation) khác. "Chuyển sinh linh hồn", transmigration, là có một "linh hồn" trường cửu và trường tồn bất biến, di chuyển từ một cơ thể vật chất sang một cơ thể khác. Cả hai danh từ -- đầu thai và chuyển sinh linh hồn -- đều không thích nghi để diễn đạt khái niệm của người Phật tử. Ðối với Phật Giáo, không hề có một thực thể tinh thần không biến đổi, không có một "tự ngã" hay một "linh hồn" trường tồn bất biến. Các nhà viết sách Phật Giáo thường dùng danh từ "tái sanh", rebirth. Ðây là danh từ gần nhất và ít bị chống đối nhất, nhưng cũng chưa phải là hoàn toàn thỏa đáng. Tuy nhiên, các nhà viết sách Phật Giáo không dùng danh từ tái sanh trong ý nghĩa có một cái gì nguyên vẹn, thường còn, nhập trở lại vào một thể xác mới. Danh từ Pali dùng trong kinh điển Phật Giáo là punabbhava, nghĩa là sự trở thành đổi mới, hay tiếp tục sống trở lại trong một kiếp mới.
Ðể thấu hiểu thuyết tái sanh hay chủ thuyết cho rằng sau khi chết vẫn còn có sự sống, cần phải khảo sát một vài định luật hay nguyên tắc. Ðịnh luật hay nguyên tắc căn bản đầu tiên cần phải được khảo sát để lãnh hội thuyết tái sanh là định luật vô thường (anicca), quy định rằng trên thế gian này không có chi thường còn hay tịnh, không biến chuyển. Nói cách khác, định luật phổ cập và không ngừng nghỉ này chi phối tất cả. Thấy một dòng sông ta có thể nghĩ rằng nó là như vậy, nhưng không có giọt nước nào, bất luận lúc nào, đứng nguyên một chỗ y như trong khoảnh khắc trước đó. Chí đến người nhìn nó cũng không còn y hệt là một, trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Chúng ta đang sống trong một thế gian luôn luôn biến đổi, trong khi ấy chính chúng ta cũng không ngừng chuyển biến. Ðó là định luật nghiêm khắc. Ðức Phật rành mạch chỉ dạy: "Tất cả các pháp hữu lậu, hữu tri hữu giác hay vô giác vô tri, đều là vô thường (sabbe sankhàrà aniccà)."
Một điểm quan trọng của định luật vô thường ấy là, mặc dầu tất cả mọi sự vật đều phải đổi thay, nhưng không có chi hoàn toàn tan mất hay tiêu diệt. Chỉ đổi thay hình thức. Như vật ở thể rắn có thể đổi thành thể lỏng, và vật ở thể lỏng đổi thành hơi, nhưng không bao giờ có chi hoàn toàn tan biến. Vật chất là sự biểu hiện của năng lực và như vậy, không thể bị mất tan hay tiêu diệt, đúng theo nguyên lý của khoa học, cũng được gọi là định luật bảo tồn năng lượng.
Một điểm quan trọng khác của định luật vô thường là không có một lằn ranh rõ rệt phân chia hoàn cảnh hay trạng thái này với hoàn cảnh hay trạng thái kế tiếp đó. Cái này hòa lẫn vào cái kế. Thử nhìn các lượn sóng nhô lên rồi tan biến trên biển cả. Mỗi lượn nhô lên thì tràn xuống để giúp cho lượn kế nổi lên, rồi lượn này cũng vậy, nhô lên và tràn xuống, giúp cho lượn kế nữa nổi lên, mỗi lượn lẫn hòa vào lượn kế. Không có một lằn ranh giới giữa lượn sóng này với lượn kế. Tất cả những tình trạng đổi thay trên thế gian cũng dường thế ấy. Vô thường biến đổi là một tiến trình liên tục xảy diễn, một luồng biến chuyển hay một sự chảy trôi -- một ý niệm hoàn toàn hòa hợp với tư tưởng khoa học hiện đại.
Hai định luật hay quy tắc căn bản khác phải được khảo sát để thấu hiểu thuyết tái sanh là định luật trở thành và định luật liên tục. Trong khi luật vô thường nói rằng không có chi là thường còn mà luôn luôn biến đổi thì định luật trở thành nói rằng tất cả mọi sự vật, trong mỗi khoảnh khắc, đều ở trong tiến trình đang trở thành một cái gì khác. Như vậy, luật trở thành là hệ luận hay sự nối tiếp tự nhiên của luật vô thường. Không có bất luận vật nào, trong một điểm thời gian nào, mà không ở trong tiến trình đang trở thành một cái gì khác. Không ngừng trở thành là đặc điểm căn bản dính liền với tất cả mọi biến chuyển.
Ðịnh luật liên tục tùy thuộc vào định luật trở thành. Trở thành dẫn đến liên tục và như vậy, định luật liên tục là hệ luận, một nối tiếp tự nhiên của định luật trở thành. Bởi vì có sự liên tục không gián đoạn nên ta không thấy rõ một lằn ranh phân chia tình trạng hay trạng thái này với tình trạng hay trạng thái kế đó.
Luật hành động và phản ứng của hành động là một định luật hay quy tắc căn bản khác phải được khảo sát để thấu hiểu thuyết tái sanh. Luật này quy định rằng mỗi hành động đều tạo hậu quả, hay phản ứng của hành động. Quy tắc hậu quả theo sau hành động, tức quả theo liền nhân, áp dụng trong mọi lãnh vực, dầu là nhân do thiên nhiên hay con người tạo. Ðây là một định luật phổ thông, áp dụng cho tất cả mọi sự vật trong thế gian, vật chất cũng như tinh thần. Ðịnh luật này cũng được gọi là nhân quả. Khi luật nhân quả liên hệ đến những hành động của con người thì được gọi là luật nghiệp báo (kamma), và nơi đây chúng ta đề cập đến nghiệp báo trong ý nghĩa này.
Nếu sanh là khởi điểm và chết là mức cùng tột của đời sống thì chúng ta không cần phải bận tâm lo âu hay tìm hiểu vấn đề đau khổ hay bất toại nguyện. Một trật tự tinh thần trong vũ trụ, thực tại của những gì đúng hay sai, chánh hay tà, sẽ không có ý nghĩa gì đối với ta. Hưởng thụ những gì vui sướng và cố tránh những phiền lụy bằng mọi cách, hình như là điều nên làm trong cuộc sống ngắn ngủi này. Tuy nhiên, quan niệm như vậy không giải thích vấn đề bất bình đẳng trong nhân loại và nói chung, con người ý thức rằng phải có nguyên nhân đạo đức tạo nên những hoàn cảnh bất đồng, những chênh lệch giữa người và người, do đó có nhu cầu tìm hiểu nguyên nhân của điều bất hạnh này.
Ðịnh Luật Nghiệp Báo
Giáo lý nghiệp báo (kamma) trong Phật Giáo nên được phân biệt với những giáo lý về nghiệp mà các tư tưởng gia không phải Phật Giáo đã truyền dạy trước, trong khi, và chí đến sau thời Ðức Phật. Kamma, nghiệp báo, là định luật theo đó nguyên nhân đạo đức uốn nắn vận mạng chúng sanh và đưa đến tái sanh.
Danh từ "kamma" trong tiếng Pali (Nam Phạn), tức ngôn ngữ mà Ðức Phật dùng, và chữ "karma" trong Sanskrit (Bắc Phạn), theo ngữ nguyên, có nghĩa "hành động", hay "việc làm". Tuy nhiên, không phải tất cả hành động đều được xem là kamma (nghiệp). Tóc mọc, móng tay ra dài và sự tiêu hóa vật thực chẳng hạn, đều là những loại tác động nhưng không phải kamma (nghiệp). Những phản ứng tự nhiên, không có tác ý hay ý muốn làm, cũng không phải kamma mà chỉ là những sinh hoạt không có ý nghĩa đạo đức.
Là một danh từ kỹ thuật, chữ "kamma" được dùng trong kinh điển nguyên thủy để chỉ những hành động có tác ý (sankàrà, hành). Những hành động này có thể là thiện (kusala) hay bất thiện (akusala), hoặc không thiện không bất thiện (avyàkata, trung lập, không có tánh chất đạo đức) biểu lộ bằng thân (kàya-kamma, thân nghiệp), bằng lời nói (vacà-kamma, khẩu nghiệp), hoặc bằng tư tưởng (mano-kamma, ý nghiệp). Nói cách khác, nghiệp có thể được tạo do việc làm bằng thân, lời nói hay ý nghĩ. Và chính những sinh hoạt có tác ý của chúng ta được gọi là nghiệp (kamma). Như vậy, danh từ kamma (nghiệp) được dùng để chỉ những hành động có tác ý, thiện hay bất thiện, biểu lộ bằng ý nghĩ, lời nói, hay việc làm. Các hành động này sẽ quyết định phần nào những hậu quả lành hay dữ. Kamma là hành động, hậu quả của hành động được gọi là kamma-vipàka, quả. "Ðã có ý muốn, con người hành động bằng thân khẩu, hay ý, và sẽ gặt hái những hậu quả tương xứng. Tất cả chúng sanh đều có những hành động (kamma) của chính mình, cố hữu dính liền theo với mình, là tâm tánh bẩm sinh của mình, là họ hàng thân thuộc, là nương tựa của mình." [2]
Tác động vô cùng tận này của nghiệp (kamma) và quả (kamma-vipàka), tức hành động và phản ứng của hành động, nhân và quả, hột và trái, liên tục vận chuyển không gián đoạn, và trở thành diễn tiến chuyển biến mãi mãi tiếp nối của những hiện tượng tâm-vật-lý của kiếp sinh tồn.
Giờ đây ta thấy rõ rằng nghiệp (kamma) vốn là tác ý, một động lực. Ðã có ý muốn, con người hành động bằng thân, khẩu, ý, và hành động đưa đến phản ứng của hành động. Ái dục trổi dậy biểu lộ ra ngoài bằng hành động. Hành động tạo quả. Ðến lượt nó, quả đưa đến những ý muốn mới, ái dục mới. Tiến trình nhân và quả, hành động và phản ứng của hành động là một định luật thiên nhiên.
Tác động của nghiệp có đặc tánh là hoàn toàn công bình, bởi vì nghiệp là kế toán viên rất chính xác. Do đó mỗi người nhận lãnh đúng phần của mình đáng nhận, quả tương xứng với nhân.
Kamma, nghiệp báo, chính nó là một định luật mà không cần phải có một nhân vật làm ra luật; một nguyên nhân ngoại lai, một quyền lực vô hình, nhằm xử phạt những hành động tội lỗi và ban thưởng những hành động tốt không có chỗ đứng trong tư tưởng Phật Giáo. Con người luôn luôn thay đổi, hướng đến tốt hay đến xấu. Sự biến đổi ấy không thể tránh, và trọn vẹn tùy thuộc nơi tác ý của chính mình, nơi hành động của chính mình. Ðây chỉ là định luật bảo tồn năng lượng tự nhiên phổ cập trong vũ trụ, nới rộng vào lãnh vực đạo đức.
Mặc dầu thông thường chúng ta hiểu rằng theo định luật nghiệp báo thì hành động tạo nghiệp sẽ trổ sanh quả, nhưng phải nhận định rằng còn những yếu tố nhân khác cũng góp phần vào và lắm khi phối hợp chung lại để quyết định hậu quả. Một nguyên nhân riêng rẻ không thể tạo một quả, càng không thể tạo nhiều quả.
Theo Phật Giáo, sự vật không phải vô-nhân-sanh (a-hetuka, được sanh ra mà không do nguyên nhân), hoặc nhất-nhân-sanh (eka-hetuka, được sanh ra do một nguyên nhân duy nhất). Một số sự kiện tác động chung để trợ duyên hợp thành kinh nghiệm của con người. Vạn pháp do duyên sanh (paticcasamuppanna, tất cả mọi sự vật đều được sanh ra do những gì khác tạo duyên) và con người, do sự hiểu biết chính mình và thiên nhiên, có thể thấu đạt, kiểm soát và làm chủ mình.
Tương quan nghiệp báo không phải là yếu tố quyết định, hay định mạng. Nghiệp là một trong nhiều yếu tố tạo duyên (điều kiện), quyết định bản chất của quả sẽ trổ sanh, và hành động của ta trong hiện tại có thể dập tắt hay đổi thay nghiệp quá khứ. Rõ ràng giáo huấn về nghiệp được dạy trong Phật Giáo không phải là chủ thuyết tiền định hay định mạng. Có thể ghi nhận rằng Phật Giáo bác bỏ mọi hình thức định mạng: dầu là định mạng tự nhiên do thiên nhiên quyết định (sabhàvavàda), định mạng do thần linh quyết định, thiên mạng (issarakaranavàda), hay định mạng do nghiệp quyết định (pubbakammavàda), tức là tất cả đều do nghiệp quá khứ, hay do sự phối hợp nào của nghiệp quá khứ quyết định.
Theo Phật Giáo, con người như thế nào là vì được tạo duyên do định luật huyết thống (bìja-niyàma, theo định luật này thì giống nào sanh giống nấy, như hột lúa thì sanh cây lúa, hột cam thì sanh cây cam); do môi trường sinh sống và những định luật vật lý (utu-niyàma, như hiện tượng thời tiết, mưa gió v.v...); do những định luật tâm lý (citta-niyàma, như những nguyên tố cấu tạo tâm, lịch trình diễn tiến của tâm, năng lực của tâm) bao gồm di sản nghiệp báo đã tích trử (kamma-niyàma, định luật nghiệp báo); không phải một định luật nào hoặc tất cả những định luật kể trên quyết định. Con người còn có phần tự do ý chí (attakàra) hay sự nỗ lực cá nhân (purisakàra) của mình mà nhờ đó có thể biến đổi bản chất tự nhiên cũng như môi trường sinh sống của chính mình (bằng cách hiểu biết nó), để đem lợi ích lại cho mình và cho kẻ khác.
Vòng Quanh Sinh Tồn
Không cần phải học rộng hiểu nhiều mới biết được thế nào hành động tạo nên phản ứng của hành động, thế nào hậu quả theo liền nguyên nhân, hột sanh ra trái, nhưng khi nói rằng năng lực hùng mạnh của nghiệp, hay những hành động có tác ý, sẽ trổ quả trong một kiếp sống vị lai, sau khi cơ thể vật chất này tan rã, thì ắt là khó hiểu thấu.
Theo Phật Giáo, không có đời sống nào sau khi chết hoặc sự sống nào trước khi sanh, mà không có liên quan đến nghiệp, tức những hành động có tác ý. Nghiệp báo và tái sanh cùng đi chung với nhau. Nghiệp báo là hệ luận hay sự tiếp nối tự nhiên của tái sanh, và ngược lại, tái sanh là hệ luận của nghiệp báo. Tuy nhiên, ở đây chúng ta phải hiểu rằng lý nghiệp báo trong Phật Giáo không phải là một chủ thuyết triết học theo đó hành động của con người không được tự do, mà quyết định bởi những động cơ được xem là những động lực ngoại lai ảnh hưởng đến ý muốn, hoặc những động cơ đã được Thần Linh hay nguyên lý nào từ bên ngoài sắp xếp trước. Không có đời sống vĩnh cửu ở cảnh trời hay ở địa ngục trong tư tưởng Phật Giáo. Sanh đến trước tử, rồi tử đến trước sanh, và như vậy sanh tử, tử sanh, liên tục tiếp nối nhau. Mặc dầu vậy, không có một tự ngã trường tồn hay một thực thể nhất định, chuyển dịch từ kiếp sống này sang kiếp khác. Dầu con người là một đơn vị tâm-vật-lý bao gồm tâm và cơ thể vật chất, phần tâm linh, hay tâm của con người không phải là một linh hồn hay bản ngã trong ý nghĩa một thực thể trường tồn vĩnh cửu, không biến đổi. Tâm là một động lực, một toàn thể động lực liên tục, có khả năng huân tập trí nhớ, không những của kiếp này mà cả những kiếp sống quá khứ.
Linh hồn trường cửu hay bản ngã mà các tôn giáo khác đề cập đến, được gọi trong kinh điển Phật Giáo là atta, hay àtma trong Sanskrit. Danh từ vô ngã, anattà, trong Pali và anàtma trong Sanskrit, được dùng để phủ nhận một linh hồn hay một bản ngã. Lý vô ngã (anattà) trong giáo lý nhà Phật, hàm ý không có một linh hồn hay bản ngã, không phủ nhận sự hiện hữu một cá nhân hay một nhân vật. Phật Giáo dạy không có một cá nhân trường cửu, không có một linh hồn hay một bản ngã không biến đổi. Theo Phật Giáo, cá nhân hay nhân vật không phải là một thực thể bất biến mà là một tiến trình sanh và diệt, một tiến trình của sự dinh dưỡng, của sự thiêu đốt, của luyến ái, mà không có chi giống như một thực thể bất động.
Trong tư tưởng Phật Giáo, không có chi phát sanh từ hư vô. Không có chi hiện hữu mà không do nhân nào tạo nên. Tất cả mọi sự vật, vô tri vô giác hoặc hữu giác hữu tri, đều phải do nhân tạo nên mới hiện hữu, vạn pháp đều do duyên sanh. Tuy nhiên, Phật Giáo không đề cập đến nguyên nhân đầu tiên. Không thể quan niệm khởi điểm của luồng sinh tồn của chúng sanh, và như Ðức Phật dạy: "Bánh Xe này của sự Sinh Tồn, chu trình này của sự liên tục (sự tuần huờn của vòng luân hồi), không có mức tận cùng mà ta có thể thấy, và khởi điểm của chúng sanh, một nguyên nhân đầu tiên, không thể biết." [3]
Khi Ðức Phật nhấn mạnh rằng cái được gọi là "chúng sanh" hay "cá nhân" không phải gì khác hơn là một phối hợp những động lực vật lý và tâm linh hay những năng lượng, một biến chuyển của sự liên tục, có phải chăng Ngài đi trước cả hai mươi lăm thế kỷ, ngành khoa học và ngành tâm lý học hiện đại?
Cơ thể tâm-vật-lý này không ngừng chuyển biến, tạo nên những tiến trình tâm-vật-lý mới trong từng khoảnh khắc và như vậy bảo tồn tiềm năng cho những tiến trình hữu cơ tương lai, không có khoảng trống giữa khoảnh khắc này với khoảnh khắc kế. Chúng ta sống và chết trong mỗi khoảnh khắc trong đời sống. Ðó chỉ là sự hợp thành và sự hoại diệt của một chúng sanh, sanh rồi diệt giống như các lượn sóng trên mặt biển.
Chuyển biến trong sự liên tục này, tiến trình tâm-vật-lý này vốn là điểm đặc thù của chúng ta trong đời sống, không chấm dứt khi ta chết mà tiếp tục không ngừng. Luồng trôi chảy tâm linh luôn luôn chuyển động này mang danh là ý chí, khát vọng, thèm muốn, hay ái dục (tanhà) và tạo thành nghiệp lực. Chính động lực hùng mạnh này, ý muốn sống này, giữ đời sống luôn luôn tiếp diễn. Theo Phật Giáo, chẳng những đời sống của con người mà đời sống của tất cả chúng sanh trong toàn thể tam giới đều do động lực dũng mãnh phi thường này lôi cuốn -- tâm này cùng với những tâm sở của nó, thiện hay bất thiện.
Như đã có thảo luận trước đây, theo lời dạy của chủ thuyết duy vật thì con người chấm dứt đời sống của mình sau khi chết. Tuy nhiên, theo Phật Giáo, động lực và tiềm năng không chấm dứt khi chết, động lực luôn luôn biến chuyển mà không bao giờ tan mất. Tiềm năng không di chuyển từ nơi này sang nơi khác mà có thể chấm dứt biểu hiện ở một nơi rồi bắt đầu biểu hiện ở một nơi khác. Bên trong con người, động lực hùng mạnh nhất là ý chí muốn sống, muốn tồn tại, muốn tiếp tục sống, muốn trở thành, trở thành thêm, và thêm nữa. Ðộng lực ấy không tan mất khi con người chết. Nó tự biểu hiện, tự đặt mình trở lại, tự cấu thành trong những điều kiện mới, điều hòa thích hợp với nó. Chính sự biểu hiện và tự đặt mình trở lại của luồng sống trong những điều kiện mới mẻ ấy được gọi là tái sanh, trở- thành-trở-lại, hay kiếp sống mới.
Tiến trình nghiệp (kammabhava) là năng lượng phát xuất từ kiếp sống hiện tiền, tạo điều kiện cho kiếp sống vị lai, trong một sự nối tiếp vô cùng tận. Trong tiến trình này không có cái chi diệt ở đây và sanh ở kia, không phải là cùng một người, mà cũng không phải là hai người hoàn toàn khác biệt (na ca so na ca anno). Việc có thể xảy diễn một cách hợp lý để chứng tỏ rằng có thể nhận ra một người mà không cần người ấy phải có một linh hồn trường cửu, được Giáo Sư A.J. Ayer của Ðại Học Oxford, một Phân Tích Gia Luận Lý Học nói như sau:
"Tôi nghĩ rằng, một cách hợp lý, rõ ràng có thể chấp nhận trường hợp đầu thai như sự kiện có thể có bằng cách chỉ đặt ra quy tắc rằng nếu một người được nhận diện về mặt vật chất như đang sống ở thời kỳ sau này, có những kỷ niệm và tâm tánh của một người được nhận diện đã có sống ở một thời trước, thì hai người có thể được xem là một, không phải hai." [4]
Luồng Trôi Chảy Của Tâm
Có chập tâm cuối cùng (cuti citta hay cuti vinnàna) của kiếp sống tức khắc trước đó; lập tức sau khi chập tâm này chấm dứt, nhưng trong khi chấm dứt, tạo duyên (điều kiện) cho chập tâm đầu tiên của kiếp sống hiện tại phát sanh, được gọi là thức-nối-liền, hay thức-tái-sanh (patisandhi vinnàna). Cùng thế ấy, chập tư tưởng cuối cùng của kiếp sống này tạo duyên cho chập tư tưởng đầu tiên trong kiếp kế nữa. Như vậy, chập tâm phát sanh và hoại diệt, nhường chỗ cho chập mới. Và luồng tâm cứ thế mãi mãi chảy trôi cho đến khi cuộc sinh tồn chấm dứt. Cuộc sinh tồn, nói theo một cách, là luồng tâm -- tức ý muốn sống, ý muốn tiếp tục sống.
Theo sinh vật học hiện đại, đời sống của một người bắt đầu từ giây phút kỳ diệu khi tinh trùng của người cha lẫn chen vào kết hợp với tế bào trứng, hay minh châu, trong bụng mẹ. Ðó là khoảnh khắc có sự sanh. Khoa học chỉ đề cập đến hai yếu tố vật lý chung ấy. Tuy nhiên, Phật Giáo nói đến yếu tố thứ ba, thuần túy thuộc về tâm linh.
Theo bài kinh Mahàtanhàsamkhaya Sutta, ghi lại một thời Pháp của Ðức Phật, "Do sự phối hợp của ba yếu tố, có sự thụ thai. Nếu mẹ và cha gặp nhau mà không nhằm đúng thời kỳ của mẹ và một chúng sanh sắp ra đời (gandhabba), thì hột giống không đậu. Khi cha mẹ gặp nhau vào đúng thời kỳ của mẹ mà không có sự hiện hữu của một gandhabba hay chúng sanh sắp được sanh, cũng không có thụ thai. Khi mẹ và cha gặp nhau vào đúng thời kỳ của mẹ và có sự hiện hữu của một chúng sanh sắp được sanh (gandhabba), ắt có mầm giống của đời sống."[5]
Yếu tố thứ ba, gandhabba, là một danh từ để chỉ thức-tái-sanh (patisandhi vinnàna). Ta có thể gọi đó là tiềm năng phát xuất từ người chết. Nhưng thức-tái-sanh này không phải là một bản ngã vĩnh cửu bất biến hay một thực thể tự kỷ để kinh nghiệm hậu quả của những hành động thiện hay bất thiện. Thức này cũng do những điều kiện (duyên) tạo nên. Nếu không có duyên ắt không có thức phát sanh.
Ái dục bám níu vào kiếp sinh tồn này, ý muốn sống này, mù mờ phảng phất, rộng lớn bao phủ tâm của con người, dầu ta có hay biết nó cùng không. Ái dục, cũng như bất luận tư tưởng nào khác, là biểu hiện của năng lượng, và như vậy không thể tan mất hay bị tiêu diệt. Ái dục dũng mãnh và dẻo dai này, ý chí muốn sống này, là một biểu lộ hùng mạnh và dẻo dai của năng lượng, và không thể cùng chết theo với người chết. Ái dục bám níu vào kiếp sinh tồn, làm cho người chết "sinh tồn trở lại". Ý muốn sống làm cho người chết "sống trở lại". Và chừng đó tâm của con người đeo níu, cố bám vào một kiếp sinh tồn khác.
Bởi vì ái dục luyến ái theo kiếp sinh tồn (bhavatanhà) là động cơ nổi bật nằm phía sau hầu hết tất cả những sinh hoạt của con người nên vào lúc sắp lìa đời nó càng tăng trưởng mạnh mẻ, con người càng bám níu chặt chẽ. Như lời dạy của chính Ðức Phật: Vào lúc lâm chung, ái dục nổi bật này trở thành sức bám níu hùng mạnh, ôm giữ chặt chẽ (upàdàna, thủ), lôi cuốn con người vào một kiếp sinh tồn khác. Tiến trình của chập tư tưởng cuối cùng mang theo với nó năng lực ôm giữ chặt chẽ ấy. Ðó là định luật thiên nhiên, không có chi là bí ẩn, hay chỉ bí ẩn khi chúng ta chưa thấu hiểu. Trong tình trạng khuấy động kinh hoàng, cố bám chặt chẽ vào đời sống vào mỗi giây phút trong cơn hấp hối, chúng sanh lìa đời chớp nhoáng gởi đi những nghiệp lực vào lòng bà mẹ sẵn sàng thụ thai, và kiếp sống mới bắt đầu.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét