Phần 7
Ðặc tánh của Con đường
Ðến đây chúng ta đã tuần tự xem
qua mỗi chi của Bát Chánh Ðạo. Tám chi của Bát Chánh Ðạo liên quan với nhau rất
mật thiết và không thể phát triển riêng rẽ từng chi một cách khả quan. Trong
khi hiểu biết chân chánh ta cũng suy tư chân chánh. Khi tư tưởng chân chánh tức
nhiên lời nói, việc làm và lối sanh sống cũng chân chánh. Thân khẩu trong sạch
giúp chú niệm dễ dàng. Khi quán niệm chân chánh hiểu biết và tư tương càng phát
triển tốt đẹp hơn. Và cứ thế hành giả dần dần tiến bước trên con đường.
Bát Chánh Ðạo không phải là tám
con đường chánh, cũng không phải là con đường chia làm tám giai đoạn nối tiếp
nhau từ xa đưa đến gần mục tiêu, mà giống như một sợi thừng do tám tao nhợ se
lại. Người
muốn nương nhờ dây thừng để leo lên cao, mỗi lần chỉ nắm chặt lấy một số tao
nhợ. Khi bỏ tay kia lên lại nắm vào một số tao nhợ khác, cao hơn. Hành giả mỗi
lần chỉ thực hành một số chi. Hiểu theo nghĩa cùng tột, mỗi chi của Bát Chánh
Ðạo là một tâm sở. Một loại tâm vương tại thế chỉ bao gồm một số nhiều hay ít
các tâm sở này. Chỉ đến khi chứng ngộ Thánh quả thì toàn thể tám tâm sở đồng
phát sanh cùng một lúc trong loại tâm siêu thế.
Ðứng về phương diện thực hành, tức
xem như một phương pháp tu tập, Bát Chánh Ðạo có thể phân làm ba là:
1. Ba chi Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp
và Chánh Mạng đề cập đến những lời không nên nói, những việc không nên làm và
những nghề không nên hành. Ðó là giới luật, nêu lên nhưng sai lầm nên tránh.
Nên hiểu rằng đây chỉ là khía cạnh tiêu cực, những gì không nên làm. Tuy nhiên,
giới luật trong Phật Giáo cũng bao hàm phần tích cực. Thí dụ như không nên nói
dối, nói đâm thọc, nói thô, nói nhảm cũng hàm ý nên nói lời chân thật, nói lời
đem lại hòa hợp, lời thanh tao nhã nhặn, lời hữu ích v.v...
2. Ba chi Chánh Tinh Tấn, Chánh
Niệm, Chánh Ðịnh đề cập đến công phu thanh lọc tâm bằng pháp môn hành thiền,
thiền vắng lặng và thiền minh sát.
3. Hai chi Chánh Kiến và Chánh Tư
Duy, vừa là bảng chỉ đường đưa khách lữ hành vào đúng con đường chân chính lúc
sơ khởi, vừa là đuốc tuệ soi sáng con đường theo từng bước một của hành giả,
vừa là Ánh Ðạo Vàng, Ánh Sáng Chân Lý cùng tột, sau khi hành giả đã hoàn mãn
trải qua suốt Con Ðường, là thành quả của công phu hoàn tất mỹ mãn cuộc hành
trình. Ánh Sáng Trí Tuệ đến đâu thì đêm tối của Vô Minh lui dần đến đó. Mãi đến
khi chỉ còn Chánh Kiến, và Vô Minh hoàn toàn tan biến.
Như vậy ta có thể sắp xếp tám chi của Bát Chánh Ðạo vào ba nhóm
như sau:
- Giới : Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng
- Ðịnh: Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh
- Tuệ: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy.
Giới-Ðịnh-Tuệ là Con Ðường Giải
Thoát. Khi kể tám chi cuả Bát Chánh Ðạo thì Chánh Kiến và Chánh Tư Duy đứng
đầu. Ðến lúc xem như một pháp tu tập thì ba phần của Bát Chánh Ðạo được kể theo
thứ tự Giới, Ðịnh, Tuệ. "Tuệ" gồm Chánh Kiến và Chánh Tư Duy lại được
kể sau cùng. Như vậy nhìn vào toàn diện, có phải đây là một lối trình bày thiếu
nhất trí hay không?
Không phải thiếu nhất trí mà hợp
lý. Chánh Kiến ở mức sơ khởi, là hiểu đúng con đường. Như người kia lạc nẻo, bỡ
ngỡ trước nhiều ngả đường vì không biết phải chọn ngã nào thì may thay, chợt
thấy một tấm bảng chỉ đường bên cạnh một con đường mòn. Bảng chỉ đường là Chánh
Kiến. Ở giai đoạn đầu tiên Chánh Kiến là ánh sáng rọi vào chánh đạo, là sự hiểu
biết dẫn dắt hành giả sơ cơ vào con đường chánh, và người có Chánh Kiến là
người đã nhận ra con đường. Chánh Kiến, sự hiểu biết chân chánh, hay khả năng phân
biệt chánh tà, phải dẫn đầu, phải hướng đạo toàn thể các chi khác của con
đường, vì Chánh Kiến giúp hành giả có sự hiểu biết về con đường, về khởi điểm
và hướng đi của con đường, về những gì hành giả sẽ gặp dài theo con đường và về
mức đến cuối cùng của con đường. Muốn thực hành Giáo Pháp mà không có Chánh
Kiến cũng giống như người kia leo lên xe, mở máy cho xe chạy mà không biết
đường đi vì chưa xem bản đồ, cũng không hỏi han ai trước. Người ấy sẽ gặp nguy
cơ là sẽ không đi về hướng mà mình muốn đi.
Chánh Kiến cho hành giả một ý niệm
về con đường. Chánh Tư Duy đặt hành giả vào con đường và chỉ hướng đi cho hành
giả. Tuy nhiên vai trò của Chánh Kiến và Chánh Tư Duy không chấm dứt tại đó.
Khi hành giả vững bước đi suốt con đường, từ Giới, Ðịnh đến Tuệ thì giai đoạn
Tuệ cuối cùng này là Chánh Kiến Chánh Tư Duy cao siêu, có hiệu năng đưa hành
giả thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Phương pháp tu tập được trình bày
theo thứ tự ba giai đoạn Giới, Ðịnh, Tuệ có thuận lý không? Ðể giải đáp thắc
mắc này chúng ta hãy tìm hiểu mục tiêu cứu cánh của toàn thể Giáo Pháp, nói
chung, và Bát Chánh Ðạo nói riêng là gì? Ðức Phật dạy rằng nước trong đại dương
tuy mênh mông nhưng chỉ có một vị là vị mặn. Cùng thế ấy, giáo lý mà Như Lai
truyền dạy tuy rộng rãi nhưng chỉ có một vị là vị giải thoát. Vậy mục tiêu của
Giáo Pháp cũng như của Bát Chánh Ðạo là giải thoát, vượt ra khỏi mọi hình thức
khổ đau của kiếp sinh tồn.
Tại sao đau khổ ? -- Vì ái dục; và
có ái dục là vì có vô minh. Vậy, muốn chấm dứt đau khổ phải phá tan vô minh. Vô
minh là tối tăm, không thấy, không biết thực tứơng của sự vật. Trí tuệ là tri
kiến, là ánh sáng, là thấy và hiểu biết sự vật, thấu triệt sự vật như thật sự
sự vật là như vậy, là thấu đạt thực tướng của vạn pháp. Do đó, phương pháp tu
tập của Phật Giáo là phát triển trí tuệ để đối trị, phá tan vô minh.
Ðây là công trình dai dẳng và cần
phải kiên trì cố gắng, liên tục tinh tấn. Tuy nhiên, khi ánh sáng trí tuệ được
phát triển đến đâu thì đêm tối của vô minh bị đẩy lui đến đó, và chỉ dầu một
tia nhỏ bé lu mờ của trí tuệ cũng cần phải được phát triển do tâm an trụ, vắng
lặng, không phóng dật, không xao lãng.
Muốn thành đạt trí tuệ phải có tâm
định. Và muốn định tâm giới đức phải trang nghiêm. Một người tàn ác, gây tổn
thương hay sát hại sanh linh, người trộm cắp, người tà dâm lăng loàn, người có
lời nói giả dối, đâm thọc, thô lỗ, nhảm nhí, người có tật say sưa, tức nhiên
không thể làm cho tâm an tĩnh. Tâm chao động không thể an trụ. Tâm không an trụ
sẽ không định. Trí tuệ không thể phát sanh nếu tâm không định.
Bước đầu tiên của phương pháp tu
tập là Giới. Nhờ có giới đức làm nền tảng hành giả trau dồi tâm trí, tiến đến
Ðịnh và dùng tâm định soi sáng sự vật, phát triển trí tuệ. Trí tuệ phá tan Vô
Minh, không vô minh tức không ái dục, và không ái dục tức không đau khổ. Vì lẽ
ấy, Giới-Ðịnh-Tuệ là con đường giải thoát, là phương cách cởi mở mọi trói buộc,
tận diệt mọi ô nhiễm, mọi hoặc lậu để thoát ra khỏi khổ đau, phiền lụy.
Pháp này có ai kinh nghiệm thực
hành chưa, có công hiệu không, và có phải dành riêng cho một hạng người tốt số
nào không?
Trong lịch sử được ghi nhận, Ðức
Phật là người đầu tiên khám phá và thực hành Bát Chánh Ðạo. Ngài sanh ra là một
người và không bao giờ tự xưng là Thần Linh hay hiện thân của Thần Linh. Một
ngày tươi đẹp kia, tại Boddh Gaya (Bồ Ðề Ðạo Tràng) Ngài tận diệt mọi ô nhiễm,
chứng ngộ thực tướng của vạn pháp và thành đạt Ðạo quả Phật.
Sau ngày thành đạo, trọn 45 năm
trường Ngài đi từ làng này đến làng khác, từ tỉnh nọ đến tỉnh kia, trên những
con đường lớn và các nẻo nhỏ, cùng khắp miền Bắc xứ Ấn Ðộ để mang lại cho nhân
loại bức thông điệp hòa bình và phúc lợi và để truyền dạy Giáo lý cao siêu. Các
môn đệ Ngài đã đến với Ngài từ mọi từng lớp xã hội, giầu sang quyền qúi cũng
như nghèo nàn khốn khổ, học rộng hiểu nhiều cũng như tối tâm dốt nát, đạo đức
thánh thiện cũng như tội lỗi hư hèn, cả nam lẫn nữ, từ lão đến ấu, tất cả đều
được Ngài thâu nhận như nhau và nhiều vị, nhờ tinh tấn chuyên cần tu tập, đã
thành đạt nhiều Ðạo Quả cao thượng.
Bát Chánh Ðạo là con đường cũ xa
xưa mà bao nhiêu vị Phật đã trải qua trong quá khứ. Trên con đường ấy bao nhiêu
vị Ðộc Giác Phật và bao nhiêu vị A La Hán đã trải qua. Ðức Phật chỉ khám phá
chứ không tạo nên con đường,
Bằng cách nào Bát Chánh Ðạo là Con đường Giải thoát?
Bằng cách nào chúng sanh bị trói
buộc vào những kiếp sống đau khổ trong vòng luân hồi?
Nguồn gốc của mọi đau khổ là ái
dục. Ái dục vì vô minh, ái dục nằm trong vô minh. Vì vô minh và ái dục chúng ta
không thấy đúng sự thật. Vì không thấy đúng sự thật chúng ta tự đồng hóa mình
với sắc, thọ, tưởng, hành, thức, xem ngũ uẩn là "Ta" là "Của
Ta".
Với sự hiểu biết lầm lạc ấy chúng
ta hành động, tức tạo nghiệp. Nghiệp quá khứ đưa đến quả hiện tại là thức, danh
sắc, lục căn, xúc, thọ. Tùy thuộc nơi thọ ái phát sanh. Do ái thủ phát sanh, do
thủ hữu phát sanh và do hữu có sanh, lão tử phát sanh. Vòng lẩn quẩn cứ thế trở
đi trở lại, mãi mãi từ vô lượng kiếp.
Chúng ta tạo nghiệp bằng thân,
khẩu, ý. Trong ba đường lối ấy ý dẫn đầu, ý là chủ. Có ý nghĩ mới có việc làm
và lời nói. Ý nghĩ phát sanh do lục căn tiếp xúc với lục trần và chịu ảnh hưởng
của những khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm trong luồng nghiệp (anusaya). Khuynh
hướng tâm tánh này nằm trên nền tảng vô minh.
Như vậy trong tiến trình đưa đến
hành động chúng ta thấy có ba tầng lớp:
- Sâu dưới đáy là lớp tâm tánh ngủ ngầm trong luồng nghiệp mà ta
đã mang theo với ta từ vô lượng tiền kiếp. Khuynh hướng tâm tánh này nằm trên
nền tảng vô minh và gây ảnh hưởng đến tư tưởng.
- Lớp trên kế đó là tư tưởng, phát sanh do lục căn tiếp xúc với
lục trần và chịu ảnh hưởng của khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm trong luồng
nghiệp.
- Lớp cuối cùng, biểu hiện ra ngoài bằng hành động và lời nói.
Hãy lấy cây quẹt làm hình ảnh cụ
thể. Trên đầu cây quẹt có chất diêm, chứa đựng tiềm năng phát hỏa. Nếu để cây
quẹt nằm yên thì không có gì xảy ra. Nhưng diêm có thể phực cháy bất luận lúc
nào khi có người cầm cây quẹt quẹt trên hộp diêm. Cũng giống như vậy, tiềm tàng
sâu ẩn bên trong tâm tánh chúng ta có những năng lực ngủ ngầm như vô minh ái
dục v.v... Những năng lực này ngủ ngầm, bất động nhưng có thể khởi phát trổi
dậy bất cứ lúc nào hội đủ cơ duyên. Ðó là tầng lớp dưới đáy sâu.
Khi lục căn tiếp xúc với lục trần
tức có lục thức. Thí dụ mắt xúc với hình thể tức có sự thấy và từ đó phát sanh
những tư tửơng. Bản chất của những tư tưởng này như thế nào tùy nơi khuynh
hướng tâm tánh vốn sẵn ngủ ngầm trong luồng nghiệp mà ta mang theo từ các kiếp
sống quá khứ. Như cùng trong một cảnh ngộ mà người bẩm tánh nóng thì giận dữ
còn người tâm tánh từ ái nhu hòa thì có những tư tưởng dịu hiền. Cùng đứng
trước một pho tượng Phật, người Phật tử thuần thành thì có những tư tưởng tôn
kính, người thường, không phải Phật tử thì dửng dưng, còn người đã sẵn có ác
cảm với Phật Giáo thì sanh tâm bất mãn. Dầu sao, ngày nào chưa chứng đắc Quả A
La Hán thì tâm tánh vẫn còn nằm trong vô minh. Ðó là tầng lớp thứ nhì, có thể
so sánh với ý tưởng muốn cầm cây quẹt.
Cuối cùng, do sự thúc đẩy của
những tư tưởng vừa phát sanh -- như những ý nghĩ thấm nhuần từ, bi, hỷ, xả hay
những tư tưởng tham lam, sân hận hay ganh tỵ v.v... -- ta có những hành động
thanh cao hiền đức hay hung ác bạo tàn. Hành động này cũng như ngọn lửa phực
lên vì có người cầm quẹt quẹt vào hộp diêm. Người ấy sẽ dùng lửa để thắp đèn,
nấu bếp hay thiêu dốt một vật gì. Ðây là tầng lớp hiển hiện ra ngoài, lớp trên
nhất, ví như băng tuyết trên mặt biển, chì để lộ lên trên mặt nước một phần
nhỏ. Phần lớn thì chìm đắm trong nước, ta không thấy.
Giới luật kỷ cương có khả năng kiểm
soát những việc làm và những lời nói, tầng lớp trên hết. Chánh Ngữ kiểm soát
khẩu nghiệp. Chánh Nghiệp và Chánh Mạng kiểm soát thân nghiệp.
Ðịnh thanh lọc tư tưởng, tầng lớp thứ nhì. Chánh Niệm, theo dõi và phát
giác các pháp thiện hay bất thiện, chưa hoặc đã phát sanh, hay biết bạn hay
thù, đã đến hoặc chưa đến. Chánh Tinh Tấn ngăn chặn và diệt trừ bất thiện pháp,
đồng thời phát triển và củng cố các thiện pháp, tức ngăn chận quân thù chưa
đến, diệt trừ quân thù đã đến, dồng thời đón mừng và cố giữ bạn lành. Chánh
Ðịnh củng cố Chánh Niệm để phát huy trí tuệ.
Tuệ diệt trừ những ô nhiễm tiềm tàng
ngủ ngầm trong luồng nghiệp, tầng lớp cuối cùng dưới đáy sâu. Ánh Sáng của
Chánh Kiến và Chánh Tư Duy lấn dần bóng tối của Vô Minh cho đến ngày tuyệt đối
chỉ còn hào quang rực rỡ của trí tuệ.
Với trí tuệ siêu phàm hành giả đã
chứng ngộ thực tứơng của vạn pháp là vô thường, khổ, vô ngã. Nhận thức chắc
thật rằng không có cái gì có thể gọi là "Ta" và "Của Ta" tự
nhiên hành giả không còn ái và do đó chấm dứt tiến trình sanh tử, thoát ra khỏi
vòng luân hồi, thành tựu trạng thái Vô Sanh Bất Diệt, Tịch Tịnh Trường Cửu,
Niết Bàn.
Ðứng về phương diện Thanh Tịnh
Ðạo, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng tạo nên Giới Tịnh, giai đoạn đầu
tiên. Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh đưa đến Tâm Tịnh, giai đoạn thứ
nhì. Cuối cùng, Chánh Kiến và Chánh Tư Duy, làm cho Tri Kiến Thanh Tịnh, gồm
Kiến Tịnh, Ðoạn Nghi Tịnh, Ðạo Phi Ðạo Tri Kiến Tịnh và Kiến Tịnh.
Như vậy Bát Chánh Ðạo thanh lọc
chúng sanh trên suốt bảy giai đoạn của Con Ðường Trong Sạch, Thanh Tịnh Ðạo.
Bát Chánh Ðạo là Con Ðường dẫn chúng sanh từ bờ mê đến bến giác, từ Phàm đến
Thánh, là Con Ðường Giải Thoát, Con Ðường đưa đến hoàn toàn Tự Do. Ðó là con
đường lên từng bậc, tuy dài dẳng nhưng châu toàn.
Trong Kinh Mahã Parinibãna ( Ðại
Niết Bàn), để trả lời một câu hỏi của đạo sĩ du khất Subhadda, Ðức Thế Tôn dạy
:
"Trong bất luận giáo đoàn
nào, nếu không có Bát Chánh Ðạo thì cũng không có hạng nhất đẳng Sa môn (Tu Ðà
Hườn), cũng không có nhị đẳng sa môn (Tu Ðà Hàm), tam đẳng sa môn (A Na Hàm)
hay tứ đẳng sa môn ( A La Hán).
"Trong giáo đoàn nào có Bát
Chánh Ðạo, này Subhada, thì cũng có hạng nhất đẳng, nhị đẳng, tam đẳng và tứ
đẳng sa môn. Bát Chánh Ðạo là con đường duy nhất ".
Vì là Con Ðường Duy Nhất
(ekayana), Bát Chánh Ðạo cũng là Con Ðường Cũ Xa Xưa mà tất cả chư Phật và chưa vị A La Hán
quá khứ đều phải trải qua.
Bát Chánh Ðạo là con đường, Ðức
Phật là người vạch ra con đường. Chư Tăng, những vị hội viên của Giáo Hội Tăng
Già là những người rọi sáng và dẫn dắt ta noi theo con đường. Nhưng chính ta
phải tự lực cố gắng. Chánh Tinh Tấn là yếu tố cực kỳ trọng yếu của con đường.
Trong toàn thể Bát Chánh Ðạo không có lời dạy nào khuyên ta van vái nguyện cầu
để giải thoát.
Minh hạnh
Trước khi quyết định truyền bá
Giáo Pháp Ðức Phật dùng huệ nhãn quan sát thế gian xem có ai lãnh hội được Lời
Dạy của Ngài chăng. Bài kinh Ariyapariyesana Sutta của Bộ Trung A Hàm, Majjhima
Nikãya, ghi lại như sau :
"Như trong đầm có những loại
sen trắng, sen hồng, sen xanh lẫn lộn. Có những ngó sen chớm nở khỏi bùn, mọc
lên trong nước, có những cây khác vừa lém đém ngang mặt nước và cũng có những
búp sen đã vượt hẳn lên cao, không còn vướng chút bùn nhơ nước đục. Chúng sanh
trong thế gian cũng dường thế ấy dưới tầm mắt của bậc Chánh Biến Tri. Như Lai
nhìn thấy chúng sanh đủ hạng, hạng đầy bợn nhơ và hạng tương đối trong sạch,
hạng thông minh sáng suốt và hạng tối tăm mờ mịt, hạng tốt hạng xấu, hạng thiện
tri thức và hạng cuồng si. Như Lai cũng thấy hạng chúng sanh đang gieo mầm xấu
xa và hạng chúng sanh đang gặt quả dữ của nhân đã gieo từ những kiếp quá
khứ."
Theo sách Puggala Pannati, Chỉ
Danh Những Cá Tính của Tạng Luận bài 160 và bài số 153 của Bộ Tăng Nhứt A Hàm,
Anguttara Nikaya, của Tạng Kinh, trong số những người có duyên lành được gặp
Phật Pháp (Buddha sasana) có bốn hạng như sau :
1- Ugghãtitannu, người thấu hiểu tức khắc, là
người gặp được chính Ðức Phật và có đủ khả ngăn thành đạt Ðạo và Quả tức khắc,
sau khi chỉ nghe qua một lời dạy vắn tắt và ranh mạch. Ðó là những búp sen đã
vựơt ra khỏi bùn nhơ nước đục, là những búp sen trong trắng chỉ chờ tia nắng
đầu tiên của buổi ban mai để nở tung ra một cách huy hoàng rực rỡ.
2- Vipancitannu, người thấu hiểu sau khi được nghe
giải thích cặn kẽ, là người không có khả năng thành đạt Ðạo và quả tức khắc sau
khi chỉ nghe suông một lời dạy vắn tắt và rành mạch nhưng, nếu được giải thích
dông dài và cặn kẽ thì sẽ chứng ngộ Ðạo Quả.
3- Neyya, người cần phài được dắt dẫn,
được chở đi v.v... hàm ý là người cần phải được dạy dỗ, là người không thể
thành đạt Ðạo và Quả sau khi nghe bài kinh vắn tắt và rành mạch, hoặc sau khi
được nghe giải thích dong dài và cặn kẽ, nhưng cần phải chăm chú nghiên cứu,
cần mẫn học hỏi và tinh tấn thực hành Giáo Pháp trong nhiều ngày, nhiều tháng,
nhiều năm mới có thể thành công.
Những người trong hạng Neyya này
lại được chia nhỏ ra làm nhiều tiểu phân hạng, tùy theo thời gian cần thiết
phải thực hành của mỗi người để đến mục tiêu. Và thời gian này dài hay ngắn lại
tùy thuộc nơi vốn liếng Ba La Mật (Parami) đã được tích trữ của từng cá nhân và
những ô nhiễm (kilesa) mà mỗi cá nhân cần phải gội rửa. Các tiểu phân hạng này
bao gồm từ những cá nhân chỉ cần tận lực kiên trì tinh tấn trong bảy ngày đến
những người phải cần đến ba mươi, hay sáu mươi năm mới đến mức.
Trong phân hạng này lại có những
trường hợp khác nhau. Thí dụ như người kia có đủ duyên lành và đủ tinh tấn để
chứng ngộ Ðạo và Quả Tu Ðà Hoàn trong bảy ngày. Nếu người ấy tận lực cố gắng
trong khi tuổi còn niên thiếu hoặc lúc trung niên thì sau khi đắc Quả Tu Ðà
Hoàn còn thì giờ để cố gắng tiếp tục đến A La Hán Ðạo và A La Hán Quả. Nhưng
nếu để đến tuổi già mới đắc quả Tu Ðà Hoàn thì lắm khi không còn đủ thì giờ để
tiến đến tầng Thánh cùng tột trong kiếp sống hiện tiền.
Lại nữa, người kia có đủ khả năng
để thành đạt Ðạo Quả trong bảy ngày có nghĩa là người ấy phải hết sức nỗ lực
trong bảy ngày để đến nơi. Nếu không tinh tấn đúng mức thì bảy ngày có thể trở
thành bảy tháng, bảy năm hoặc lâu hơn nữa.
Những vị này, nếu không thành đạt
Thánh Quả trong thời kỳ của vị Phật hiện tại, phải chờ đến thời kỳ của một vị
Phật tương lai, nếu có duyên lành gặp được, mới có cơ may giải thoát. Giữa thời
kỳ của vị Phật hiện tại và thời kỳ của vị Phật tương lai có mọt khoảng thời
gian trống, không có Phật Pháp, và trong suốt thời gian ấy không thể có giải
thoát vì không có Giáo Pháp, tức không có Bát Chánh Ðạo. Bây giờ, vào thời kỳ
của vị Phật tương lai chỉ có những vị đã được thọ ký -- niyata vyãkarana, những
người đã được một vị Phật cho biết trứơc là sẽ đắc Ðạo Quả -- mới chắc chắn là
gặp Phật Pháp. Còn những vị khác, mặc dầu đã tích trữ đầy đủ Ba La Mật và đã
gội rửa mọi bợn nhơ trong tâm, có thể gặp, có thể không gặp được Phật Pháp để
nương nhờ đó giải thoát ra khỏi vòng đau khổ của những kiếp sinh tồn triền miên
liên tục.
4- Padaparama, là người mặc dầu đã gặp Phật
Pháp và đã hết sức cố gắng học hỏi và thực hành Giáo Pháp nhưng không thể thành
đạt Thánh Ðạo và Thánh Quả trong kiếp sống hiện tiền. Tất cả những gì mà vị này
có thể làm được là tạo cho mình một đức tánh cao thượng và một năng lực tiềm
tàng hữu dụng về sau.
Ðó là những búp sen chưa sẵn sàng
để nở trong ngày mai, khi mặt trời mọc. Họ là những ngó sen hoặc còn dưới sâu
trong bùn non của vòng luân hồi, hoặc chưa lên khỏi mặt nước. Nhưng tất cả đều
mang theo bên trong mình một tiềm năng để trở thành những đóa hoa tươi đẹp, màu
sắc rực rỡ.
Khả năng thành đạt Ðạo và Quả của
chúng sanh khác nhau là vì trình độ " Minh" và "Hạnh" của
mỗi cá nhân khác nhau.
Minh (vijjã) là sáng suốt, thấu đạt thực chất
của đời sống, là tuệ Minh Sát, có Tri Kiến của bậc Giác Ngộ, hay chứng ngộ Tứ
Diệu Ðế. Minh cũng có nghĩa là thông suốt Thập Nhị Nhân Duyên, tức những yếu tố
phát sanh do những yếu tố trứơc đó tạo duyên và trở lại làm duyên cho những yếu
tố khác phát sanh. Và cứ thế mười hai yếu tố ảnh hưởng lẫn nhau trong một vòng
lẩn quẩn của những kiếp sống, sanh tử, tử sanh triền miên diễn tiến, gọi là
vòng luân hồi. Do sự phá tan những bí ẩn của kiếp nhân sinh bằng cách thấu hiểu
trọn vẹn và đầy đủ mối liên quan giữa mưới hai yếu tố trên, bậc Thánh Nhân cũng
đập vỡ tung cái kính ảo kiến mà từ vô lượng kiếp xuyên qua đó ta thấy giả ngỡ
là thật, thấy vô thừơng là vĩnh cửu trừơng tồn, xem đau khổ là hạnh phúc và cái
vô ngã là linh hồn trừơng cửu và tin có một Thần Linh Tạo Hóa trong khi chỉ có
sự phát sanh của những yếu tố tùy thuộc và những yếu tố trứơc đó.
Hạnh (carana) là đức dộ của người luôn luôn trau
giồi tâm tánh để ngày càng trở nên trong sạch và cao thượng.
Cái gì làm cho tâm ta nhơ bẩn và
kéo ta xuống?
Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) dạy rằng
nguồn cội của tất cả những tánh hư tật xấu là tham, sân, si. Ngưười Phật Tử
thuần thành phải là một chiến si can đảm và bất khuất. Họ chiến đấu. Nhưng
không phải bằng cách thả bom, nhả đạn. Họ giết chóc. Nhưng không giết đàn ông,
đàn bà, trẻ con vô tội. "Họ chiến đấu chống chính họ, bởi vì con người là
kẻ thù tệ hại nhất của con người. Tâm là địch thủ độc hiểm nhất mà cũng là
người bạn tốt nhất. Không chút xót thương người Phật Tử tàn sát và tận diệt
những khát vọng tham ái, sân hận và si mê trong tâm họ". Và võ khí của họ
là Giới, Ðịnh, Tuệ. Giới làm cho việc làm và lời nói trong sạch. Ðịnh thanh lọc
tư tương, Tuệ tận diệt những ô nhiễm (kilesa) và những lậu hoặc (asava) ẩn tiềm
ngủ ngầm trong luồng nghiệp từ vô lượng kiếp. Giới và Ðịnh trau dồi Hạnh. Tuệ
phát triển Minh.
Ðối với con người, minh như cặp
mắt sáng, hạnh như tay chân. So với loài chim, minh như đôi mắt, hạnh như cặp
cánh. Hạnh mà không minh như người tay chân liền lạc mà mù cả hai mắt. Minh mà
không hạnh như người mắt sáng mà chân tay qùe quặt. Có đủ minh và hạnh cũng như
người đầy đủ tay chân và có cặp mắt sáng. Một trong những phẩm hạnh của Ðức
Phật là Minh Hạnh Túc, đầy đủ minh hạnh. Thiếu cả minh lẫn hạnh như người vừa
mù mắt vừa thiếu tay chân và do đó không trọn vẹn là con người.
Trong số những người sống trong
thời kỳ còn Phật Pháp (Buddha-sàsana), tức thời kỳ còn giáo lý của một vị Phật
đang được lưu truyền, có người cố gắng thực hành giới và định, tức trau giồi
hạnh, nhưng không tích trữ đủ hột giống trí tuệ, tức minh, như hiểu biết sâu
sắc bản chất của đời sống. Nhờ hạnh cao, người này có nhiều cơ may được gặp
Phật Pháp trong thời kỳ của vị Phật vị lai, kế sau Ðức Phật Thích Ca. Tuy
nhiên, vì thiếu hột giống minh, dầu có gặp Phật hay Phật Pháp, không thể chứng
đắc Thánh Quả. Bao nhiêu người, bao nhiêu chúng sanh đã có duyên lành được sanh
vào thời Ðức Phật còn tại tiền. Hơn nưã bao nhiêu người bao nhiêu chúng sanh
được sống dưới chân Ðức Phật, chẳng hạn như những vị Tỳ Khưu, những thân bằng
quyến thuộc của Bồ Tát, những vua chúa thời bấy giờ và bao nhiêu người khác, đã
được nghe chính bản thân Ðức Phật dạy -- có người cũng cố gắng thực hành Giáo
Pháp -- nhưng vì không tích trữ đủ mầm giống minh nên không thành tựu được
Thánh Quả. Mặc dầu vậy, nhờ sự cố gắng này, các vị ấy sẽ thành công trong một
kiếp sống tương lai.
Có người khác, đủ minh nhưng thiếu
hạnh. Nếu được gặp một vị Phật và được nghe Giáo Pháp ắt có thể chứng đắc Thánh
Quả vì có đầy đủ minh. Nhưng vì thiếu hạnh, người này có rất ít cơ may được gặp
Giáo Pháp của một vị Phật. Trong hiện tại -- và trong thời gian dài dẵng giữa
thời kỳ hai vị Phật -- vì không đức hạnh, người ấy không nghiêm túc trì giới,
gây những nghiệp bất thiện, tạo cho mình một bản chất giống như bản chất của
những chúng sanh trong bốn đường ác đạo và do đó, sau kiếp sống hiện tiền sẽ
tái sanh vào bốn cảnh giới thấp kém ấy. Một khi đã lọt vào giữa đám những chúng
sanh tội lỗi, tham lam, hung tợn dữ dằn ấy và phải tranh đấu để tồn tại, thật
rất khó mà tự tạo một bẩm tánh thanh cao đạo đức hầu trồi lên trở lại những
cảnh giới mà có thể hưởng được hương vị của Giáo Pháp.
Trên đây là hai hạng người, hoặc
không thể gặp Phật Pháp, hoặc có gặp cũng không thể trọn vẹn thừa hưởng hương
vị. Bây giờ, trong số những người có tích trữ đầy đủ mầm giống minh và hạnh
cũng có nhiều mức độ khác nhau. Có những hột giống trưởng thành đúng mức, sẵn
sàng nở mộng và đâm chồi để mọc lên thành cây con. Có những hột khác, ở vào
thời kỳ đang trưởng thành. Cũng có những hột hư thúi. Khi đọc tụng câu kinh, có
người để hết tâm trí vào, thông suốt ý nghĩa và thực hành đúng Lời Dạy. Có
người chăm chú ít hơn và ít cố gắng thực hành hơn. Cũng có người không hiểu gì
hết mặc dầu miệng đọc những lời vàng ngọc của Giáo Pháp, tay vẫn lần chuỗi Bồ
Ðề. Vì lẽ ấy chúng sanh trưởng thành có cao thấp khác nhau, giống như ngó sen
trong đầm.
Có ai biết rõ số lượng Ba La Mật
mà mình đã tích trữ? Dầu sao quá khứ đã trôi qua. Ðiều tốt hơn hết và cũng rất
cần thiết là nên tích trữ đồng đều Minh và Hạnh bằng cách thực hành đầy đủ
Giới-Ðịnh-Tuệ. Người thiếu minh, kém sáng suốt mà giới hạnh trang nghiêm sẽ có
cơ may gặp Phật Pháp và nhờ đó, phất triễn trí tuệ để rồi dần dần, sẽ có ngày
thành công giải thoát.
Lối sang Bờ Giác đã được rọi sáng.
Chính tự mỗi người chúng ta phải đặt chân lên con đường và thận trọng tiến
bước.
Hãy lắng nghe lời khuyên của Ðại
Ðức Kassapa:
"Những bộ chân cường tráng
dũng mãnh tiến bước trên con đường đầy gay go cam khổ, giữa đám giông tố bão
lớn và trải qua bao nguy hiểm gian lao để lần hồi trèo lên đỉnh núi.
"Người yếu sức nghiêng ngả
bên này bên kia theo chiều gió, vẫn còn quanh quẩn dưới chân đồi và, vì quá mệt
mỏi, dừng bước lại nhiều lần để nghỉ.
"Con Ðường Tám Chi ( Bát
Chánh Ðạo) dẫn đến nơi an vui hạnh phúc cũng dường thế ấy. Người mạnh kẻ yếu,
người cao thượng kẻ thấp hèn, chúng ta cùng nỗ lực lần hồi tiến bước trên con
đường ấy. Có những bẩm tánh cương quyết, không ngại bão bùng giông tố. Cũng có
những tâm hồn ươn hèn, mỏi mệt, dừng bước nghỉ chân bên đàng.
"Tất cả chúng ta đều có đủ
tiềm năng vượt qua cơn giông tố để rồi một ngày kia bước chân lên tận đỉnh núi
cao, nơi tuyết phủ trắng trong, rực rỡ chói lọi trong ánh sáng mặt trời."
Nguồn: http://www.budsas.org
0 nhận xét:
Đăng nhận xét