Phần 4
Chánh ngữ
Chánh ngữ là lời nói có chân
chánh, tức không tạo nghiệp bất thiện bằng lời nói, trái lại trau giồi những
thiện khẩu nghiệp.
Lời nói là một khả năng của con
người có giá trị vô cùng trọng đại. Bằng lời nói, ta biểu lộ những tư tưởng
thầm kín để chia xẻ với người khác. Người có Chánh Kiến và Chánh Tư Duy tức
nhiên cũng có Chánh Ngữ. Những người khác, dầu chưa đạt đến mức cao thượng ấy,
vẫn có thể tu tập, thận trọng chú tâm vào những gì mình sắp nói. Nếu con người
có thể kiểm soát được cái lưỡi không xương của mình nhân loại ắt tránh được bao
nhiêu phiền phức và đời sống trên thế gian này sẽ tốt đẹp hơn bao nhiêu. Lời
nói trong sạch sẽ không đượm nhuần những tâm sở bất thiện như tham lam, sân
hận, ganh tỵ, ngã mạn, ích kỷ v.v...
Bốn loại khẩu nghiệp bất thiện là:
nói dối, nói đâm thọc, nói thô lỗ cộc cằn và nói nhảm nhí.
a. Không nói dối mà luôn luôn nói
lời chân thật là đức hạnh đầu tiên của Chánh
Ngữ. Người nghiêm trì giới này cố tránh và kiêng cữ nói lời giả dối, tức chuyện
có nói không, chuyện không nói có. Người ấy nói lời chân thật, tận tâm sống
chân thật, chắc chắn, đáng được tín cẩn. Tâm sở bất thiện nằm phía sau lời nói
giả dối, hay ý định làm cho người khác hiểu sai sự thật, có thể khác nhau như
khi nói dối để được lợi về tài sản vật chất, địa vị, quyền thế, danh vọng
v.v... cho mình hay cho người thân mình thì đó là tâm tham. Nói dối cố tình làm
hại người khác là tâm sân v.v...
Nói lời giả dối tác hại cho người
mà cũng làm hại chính mình. Xã hội chỉ có thể tồn tại êm thấm trong sự tín cẩn
lẫn nhau khi mà người này có lý do để tín nhiệm người khác. Tật nói dối còn ảnh
hưởng đến tâm tánh tự nhiên của mình. Khi đã nói dối một lần ta bị bắt buộc
phải nói dối nữa để che đậy cái dối trước và như vậy, gài chặt người nói dối
vào một loại cạm bẫy rất chằng chịt, không lối thoát. Lắm lúc, đến độ nào,
chính người nói dối cũng không còn biết đâu là sự thật.
Giả dối là một trở ngại quan trọng
trên đường giác ngộ. Giác ngộ là thấu triệt sự thật, thấy rõ thực tướng của sự
vật, còn nói dối là nói sai sự thật, cố tình làm cho người khác hiểu sai sự
thật. Chứng ngộ Chân Lý là trọn vẹn tự hòa đồng với sự thật, với cái gì thật sự
là như vậy. Người giả dối nghĩ một đàng nói ra một nẻo, lấy giả làm thật. Con
đường giả dối hẳn là ngược chiều với con đường giác ngộ. Như vậy, cố tránh, cố
kiêng cữ lời nói giả dối là vươn mình cố vượt qua khỏi phạm vi luân lý của đời
sống xã hội. Vấn đề ở đây là trọn vẹn hòa đồng với Chân Lý.
Ðến mức cùng tột, chân thật là một
Parami (Ba La Mật), tức là một trong mười pháp có khả năng đưa người thực hành
thuần tục từ bờ mê đến bến giác (Sacca Paramita, Ba La Mật Chân Thật). Một vị
Bồ Tát luôn luôn chân thật, trong sạch và chánh trực. Phương châm của Ngài là,
"nói sao làm vậy, làm sao nói vậy", không hề sai chạy, không bao giờ
có sự chênh lệch giữa hành động và lời nói. Ðời công các Ngài như thế nào đời
tư như thế ấy. Dầu có phải hy sinh mạng sống đi nữa Bồ Tát vẫn không hề nói lời
giả dối. Sở dĩ chư vị Bồ Tát rất chú tâm đến hạnh chân thật như vậy là vì ảnh
hưởng của sự giả dối rất sâu đậm.
b. Không nói đâm thọc là pháp tu học thứ nhì. Danh từ
"pisunavacca" được Ðức Thế Tôn dùng ở đây có nghĩa là lời nói nhằm bẻ
gảy tình bằng hữu. Thành ngữ mà người thế gian thường dùng là đâm bị thóc chọc
bị gạo. Ði đầu này nói xấu đầu kia, rồi trở lại đầu kia đặt chuyện dèm pha
người này nhằm tạo sự thù hằn, hờn giận hay chia rẽ. Ðức Phật dạy:
"Người trì giới này cố tránh
và kiêng cữ, không dùng lời lẽ có tánh cách đâm thọc. Ðiều gì nghe ở đây, người
ấy không lặp lại ở nơi khác nhằm tạo chia rẽ, hoặc nghe ở nơi khác người ấy
không lặp lại ở đây với ý định làm cho hai đàng hờn giận lẫn nhau. Người ấy
đoàn kết những ai chia rẽ và khuyến khích những ai đoàn kết. Không khí thuận
hòa là niềm vui của người ấy. Người ấy hoan hỷ thỏa thích và phấn khởi trong sự
hòa hợp và, bằng lời nói, cố gắng gieo trồng mầm mống thuận hòa" (Tăng
Nhứt A Hàm. Anguttara Nikàya, 176)
Ðộng cơ thúc đẩy, đưa đến lời nói
đâm chọc thường là tâm bất mãn, sân hận hay ganh tỵ. Thấy ai thành công hay
thấy người có giới đức được tôn trọng thì sanh tâm muốn hạ uy tín hoặc làm giảm
suy giá trị. Ðôi khi vì muốn ám hại hay muốn lấy lòng một người, cũng có khi
chỉ vì thỏa thích muốn thấy người ta giận dũi cấu xé lẫn nhau.
Ðứng về phương diện nghiệp báo,
quả của lời nói đâm thọc rất là tai hại. Tâm sân, làm nguyên nhân cho lời nói,
đã là một căn bất thiện rồi, người có ác ý cố gây chia rẽ thường nghiền ngẩm
suy tư, tìm lời lẽ để châm chích cho đúng lúc, đúng tâm lý v.v... Càng ấp ủ
dưỡng nuôi trong lòng, nghiệp ác càng nặng. Nếu cố tâm bày điều giả dối để thêm
bớt thì lại còn tạo thêm khẩu nghiệp giả dối. Cả hai, lời nói giả dối và lời
nói đâm thọc, phối hợp lại tạo thành một khẩu nghiệp bất thiện vô cùng tai hại.
Người nói đâm thọc tựa hồ như loài
muổi, hút máu đầu này rồi đến ve vản đầu kia, hút một ít máu và trong lúc ấy,
không quên để lại một phần nọc độc. Miệng nói ngọt ngào như mật nhưng tâm thì
đượm nhuần chất độc.
Lời chân chính không tạo phiền
phức cho ai mà chỉ đem lại hòa hợp và an tĩnh. Thay vì gieo rắc mầm mống chia
rẽ người ấy luôn luôn tạo hòa khí giữa những người bất đồng ý kiến, xây dựng
tình bằng hữu giữa những người thù nghịch.
Trong xã hội loài người chúng ta
không thể sống riêng rẽ một mình mà phải tùy thuộc lẫn nhau. Vậy, trong sự lợi
ích kế cận nhất của mỗi người, chúng ta hãy cố gắng tập sống chung với nhau
trong bầu không khí thuận hòa, trong tình huynh đệ và trong sự điều hòa.
c. Không nói lời thô lỗ cộc cằn mà
chỉ nói thanh tao nhã nhặn. Lời thô tiếng cộc biểu lộ ra ngoài
tâm hung tợn bên trong và được thốt ra trong cơn nóng giận. Tánh cách thô bạo
của lời nói như thế có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức như la rầy, mắng
nhiếc, chưởi rủa hay nói xiêng nói xỏ v.v... tất cả đều phát sanh từ tâm bất
mãn, sân hận và nhằm gây phiền muộn khổ đau cho người khác.
Những cơn nóng giận thường bộc
phát đột ngột, không có sự nghiền ngẫm suy tính, do đó hậu quả không đến nổi
trầm trọng lắm. Tuy nhiên, vì nó có khuynh hướng tái diễn, nếu chúng ta lơ đểnh
để lặp đi lặp lại nhiều lần ắt thành thói quen và từ đó, trở thành tâm tánh sân
hận và hung bạo thì rõ ràng là một hiểm họa. Lời nói thô bạo, biểu lộ sự nóng
giận, lúc nào cũng là một tai hại cho người nghe cũng như cho người nói, trong
hiện tại cũng như trong tương lai.
Vào thời Ðức Phật có vài vị tỳ
khưu thường nặng lời lăng mạ một vị khác và vị này trả lời lại. Ðức Phật
khuyên:
"Không nên dùng lời thô lỗ
cộc cằn. Người bị nói cộc sẽ trả lời thô. Những lời gây thù trả oán thô tục
thật là đau đớn. Lời qua tiếng lại sẽ làm tổn thương như gây thương tích."
(Kinh Pháp Cú, câu 133)
Ngài giảng dạy về sự lợi ích của
người biết giữ im lặng trước những lời lăng mạ của kẻ khác như sau, "Nếu giữ được im lặng như
cái mõ bể, con đã đắc quả Niết Bàn", ý nói người hành đúng như
vậy, dầu còn tại thế cũng được xem như đã đắc Niết Bàn.
Tự kềm chế, cố tránh và kiêng cữ
những lời thô bạo trong cơn nóng giận là trau giồi hạnh nhẫn nhục, cũng là một
Ba La Mật, Khanti Paramita, Nhẫn Nhục Ba La Mật,. Ðó là chịu đựng những lời
khiển trách khắc khe và khoan hồng bỏ qua những sai lầm của người khác, tôn
trọng những quan điểm dị đồng và cảm thông những thiếu sót của người. Tự kiểm
soát thân tâm là cái chìa khóa mở cửa đưa vào hạnh phúc và để cho những cảm xúc
vô độ lượng, vô trật tự, đượm nhuần sân hận, điều khiển mình là tự đạt mình vào
tình trạng nô lệ tệ hại nhất.
Túc Sanh Truyện số 269 có thuật
chuyện Bồ Tát, tiền thân của Ðức Thế Tôn, là vua xứ Bernares (Ba La Nại), trong
một kiếp sống. Ðức Hoàng Thái Hậu, mẹ Ngài, là người hiền lương nhưng đôi khi
ăn nói cộc cằn. Hôm nọ Vua cùng đi chơi với Hoàng Thái Hậu và đoàn tùy tùng,
dạo chơi trong ngự uyển.Bên đàng có con chim ác là, màu sắc xanh tươi lộng lẩy,
nhưng mỗi khi cất tiếng lên thì giọng kêu chác chúa, ai nấy cũng bịt tai,
ngoảnh mặt than phiền. Một lúc sau, đến nơi khác có con chim chích chòe, lông
đen xấu xí mà tiếng hát lãnh lót thanh tao dịu ngọt, ai cũng thích nghe, ai
cũng trông cho nó hát thêm nữa để nghe. Nhân cơ hội Vua mở lời khuyên nhủ mẹ:
"Kính Thưa Mẫu Hậu thân mến,
tiếng kêu của con chim ác là thật chác chúa khó chịu, ai cũng muốn xa lánh.
Thật không ai thích nghe lời thô lỗ. Chim chích chòe trái lại, mặc dầu đen đúa
xấu xa nhưng đã thu hút mọi người bằng giọng hát thanh nhã dịu hiền. Như vậy,
lời nói của ta phải cẩn ngôn, êm dịu, hiền lành, đầy ý nghĩa v.v..."
Do lời khuyên của người con sáng
suốt kể từ đó về sau Hoàng Thái Hậu giữ gìn lời ăn tiếng nói và trở nên thanh
nhã dịu hiền.
d. Không nói nhảm nhí mà chỉ nói
lời hữu ích. Pháp học này được Ðức Phật dạy như
sau:
"Người (thọ trì phẩm hạnh
này) cố tránh và kiêng cữ nói lời nhảm nhí, vô ích. Người ấy nói đúng lúc, đúng
như sự việc xảy ra, nói những lời hữu ích, nói về Giáo Pháp và Giới Luật. Lời
nói của người ấy là một kho tàng, thốt ra đúng lúc, hữu ly, hòa nhã và đầy ý
nghĩa." (Tăng Nhứt A Hàm, Anguttara Nikàya, bài số 176)
Lời nói nhảm ắt vô ý nghĩa, nông
cạn và không mang lại lợi ích nào. Những lời lẽ như thế ấy chỉ khơi động vọng
tâm. Ðức Phật khuyên nên hạn chế những ngôn từ thuộc loại này. Ðối với bậc xuất
gia, lời nói phải thật là cẩn ngôn, phải được chọn lọc và chỉ nói những gì
thích hợp với Giáo Pháp. Ngài dạy:
"Này chư Tỳ Khưu, khi các con
tụ họp đông đảo thì chỉ có hai việc nên làm: hoặc thảo luận về Giáo Pháp, hoặc
im lặng cao thượng." (Trung A Hàm, Majjhima Nikàya, bài số 26)
Thảo luận về Giáo Pháp là đề cập
đến bản chất thật sự của vạn hữu, là đề cập đến Con Ðường dẫn đến chứng ngộ
Chân Lý cùng tột, Niết Bàn, và do đó, quả thật là hữu ích. Ðàng khác trầm lặng
là một hình thức nhàn lạc của kiếp sinh tồn. Lại nữa, khi ẩn rút trong im lặng
chúng ta hoàn toàn đơn độc để nhìn vào bên trong chúng ta, vào bản chất thật sự
của chúng ta, để tận tường thấy rõ mình như thật sự mình là vậy. Chừng đó ta có
thể học được phương cách vượt qua những khuyết điểm và giới hạn của cuộc sống
bình thường. Hàng cư sĩ tại gia, vì nhu cầu xã hội, còn phải cần nói năng lịch
thiệp trong câu chuyện giao dịch hằng ngày. Mặc dầu vậy, Ðức Phật dạy không nên
lơ đểnh để buông trôi quá xa, vì người chú nguyện đi trên con đường giải thoát
phải hết sức thận trọng phân biệt điều nào sẽ dẫn đi đâu, và phải luôn luôn
chuyên cần canh chừng "anh chàng nói láo" sâu ẩn lẫn trốn bên trong
chúng ta một cách rất là kín đáo.
Không nên nói lời nhảm nhí mà luôn
luôn có lời hữu ích. Vào thời Ðức Phật có tên sát nhân khát máu nọ gia nhập vào
đảng cướp, gây nhiều tội ác và về sau trở thành đao phủ thủ của triều đình. Nhờ
Ðức Sàriputta (Xá Lợi Phất) cảm hóa, tánh tình anh đổi hẳn từ hung tàn bạo
ngược trở nên hiền lành lương thiện và sau khi chết tái sanh vào cảnh Trời. Ðức
Phật giải thích rằng sở dĩ anh tái sanh tốt đẹp là nhờ lời khuyên hữu hiệu đượm
nhuần từ bi của bậc đạo đức cao thượng. Ngài dạy:
"Chỉ một lời nói hữu ích, làm
cho người nghe an tĩnh, còn quý hơn cả ngàn tiếng nói vô ích." (Kinh Pháp
Cú, câu 100)
Không phải nói nhiều mà chứng tỏ
rằng mình học rộng biết nhiều. Cũng không phải nói nhiều mà mình tạo lợi ích
cho mình hoặc cho ai khác. Kinh sách Tây Tạng có lời dạy rằng nói nhiều lắm khi
đưa đến hậy quả tai hại, như trường hợp con két, vì ham nói mà phải chịu cảnh
chim lồng.
Chánh nghiệp
Chánh nghiệp là tạo nghiệp chân
chánh, tức không sát sanh, không trộm cắp và không tà dâm, ba điều tu tập đầu
tiên trong ngũ giới. Giới thứ tư, vọng ngữ, đã đề cập đến trong phần Chánh Ngữ.
Phần lớn các kinh sách không đề cập đến giới thứ năm -- không dùng chất say --
trong Chánh Nghiệp. Nên hiểu rằng không dễ duôi uống rượu và dùng các chất say
là giữ gìn tâm cho được luôn luôn sáng suốt để luôn luôn quyết định chân chính.
a) Không sát sanh: là không có ý cắt đứt, ngăn
chặn, tiêu diệt hay làm trở ngại sức tiến triển của năng lực một đời sống,
không cho nó liên tục trôi chảy, là không làm tổn thương cuộc sống của bất luận
sinh vật nào, cũng không sai biểu, xúi dục hay quyến dụ người khác làm những
điều này. Trong hình thức thô sơ nhất, hành động sát sanh gồm đủ năm yếu tố là:
Có một sinh vật đang sống, có sự hiểu biết rằng sinh vật ấy đang sống, có ý
định cắt đứt sự sinh sống của sinh vật ấy, có sự cố tâm cố gắng làm cho con vật
chết và chính tác động sát sanh.
Ðức Phật dạy: "Ai cũng run sợ
trước gậy gộc. Tất cả đều qúy trọng đời sống. Hãy lấy bụng ta suy lòng người.
Không nên giết cũng không nên làm cho người khác giết." (Kinh Pháp Cú, câu
129).
Một ngày nọ khi vào thành Savatthi
(Xá Vệ) để trì bình Ðức Phật thấy một đám trẻ con cầm gậy xúm lại đập một con
rắn nước. Ngài dừng chân lại hỏi:
- Này các con, các con đang làm gì đó?
- Bạch Ngài chúng con đập con rắn.
- Tại sao các con đập nó?
- Bạch Ngài, vì chúng con sợ nó cắn.
Ðức Phật mở lời khuyên rằng trong
khi làm đau đớn con rắn các con hãy nghĩ đến chính các con. Hành động hung bạo
này sẽ làm tổn thương đến hạnh phúc của các con trong tương lai. Người nào muốn
tìm hạnh phúc cho mình chớ nên đánh đập kẻ khác. Và Ngài dạy:
"Kẻ nào tìm hạnh phúc cho
chính mình bằng cách hành hạ chúng sanh khác, cũng ưa thích an lạc, kẻ ấy sẽ
không được hạnh phúc."
Khi giảng về Trì Giới Ba La Mật
(Sĩla Paramita), Ðại Ðức Nãrada có lời khuyên dạy như sau:
"Mọi người đều quý trọng đời
sống của mình. Không ai có quyền cướp sự sống của kẻ khác. Bồ Tát rải tâm từ
đến tất cả chúng sanh, cho đến những con vật bé nhỏ đang bò dưới chân và không
khi nào sát hại hoặc làm tổn thương một sinh vật nào. Con người vốn sẵn có một
thú tính xúi dục giết hại những chúng sanh khác để ăn thịt mà không chút thương
hại. Cũng có khi sát sanh, như săn bắn hay đi câu, để tiêu khiển thì giờ. Dầu
để nuôi sống thân mạng hay để tìm thú vui, không có lý do nào chánh đáng để
giết một sinh linh hoặc làm một cách nào khác cho một sinh linh bị giết. Có
những phương pháp tàn nhẫn, ghê tởm, cũng có những phương pháp mà ngươi ta gọi
là "nhân đạo" để sát sanh. Nhưng, làm đau khổ một chúng sanh khác là
thiếu lòng từ ái.
Giết một con thú đã là hành động
bất chánh, nói chi đến giết một người, mặc dầu nhiều lý do đã được viện ra, gọi
là chánh đáng, có khi gọi là cao qúy, để con người tàn sát con người."
Ðể giải thích cho một thanh niên
tên Subha, thắc mắc trước trạng huống bất đồng giữa loài người Ðức Phật dạy:
"Nếu người kia trọn đời chỉ
biết sát sanh, nguời thợ săn chẳng hạn, bàn tay luôn luôn đẫm máu, hàng ngày
sống trong sự giết chóc và gây thương tích không chút xót thương. Do tính hiếu
sát ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ yểu mạng.
"Nếu người kia luôn luôn thận
trọng, không hề xúc phạm đến cuộc sống của ai, sống xa gươm đao giáo mác và các
loại vũ khí, lấy lòng từ ái đối xử với tất cả chúng sanh. Do sự không sát sanh
ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ trường thọ.
"Nếu người kia độc ác, luôn
luôn tìm cách hại người, luôn luôn dùng đấm đá và gươm đao đối xử với mọi
người. Do nết hung dữ bạo tàn ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ
ươn hèn yếu bệnh hoạn.
"Nếu người kia không bao giờ
làm tổn thương ai. Do đức tánh hiền lương nhu hòa ấy, nếu tái sanh trong cảnh
người, người ấy sẽ mạnh khỏe... " (Kinh Cũllakammavibhanga Sutta số 135
của bộ Trung A Hàm, Majjhima Nikãya).
Quả của nghiệp sát sanh nặng hay
nhẹ tùy theo tầm quan trọng của chúng sanh bị giết vì sự cố gắng để thực hiện
hành động sát sanh và tai hại gây ra khác nhau. Sát hại một người thánh thiện
là gâsy nhiều tai họa hơn là giết một tương cướp.
b. Không trộm cắp: là không có ý lấy hoặc xúi dục
người khác lấy một vật có chủ mà không được cho đến mình. "Lấy một vật
không được cho đến mình" có thể bao gồm nhiều hình thức như trộm cắp, tức
lén lút lấy của người như móc túi, khoét vách đào ngạch vào nhà lấy trộm v.v...
; như cướp gịưt tức công khai lấy của người bằng võ lực hoặc bằng cách hăm dọa,
lẹ làng gịưt lấy món đồ rồi bỏ chạy, làm cho người ta không kịp trở tay; như
gian lận, tức giả dối, tráo trở dành quyền sở hữu của một người khác; như lường
gạt, buôn bán của ít nói nhiều, giá thấp nói cao hay đo, lường, cân thiếu, của
hư xấu nói tốt, v.v... Tất cả những hình thức trên đều tạo nghiệp trộm cắp.
Một khi nhân đã gieo rồi thì qủa
đương nhiên ắt phải trổ, sớm hay chầy, nơi này hay nơi khác. Theo đúng giáo
huấn của Ðức Bổn Sư, không thể van lơn cầu cạnh hay hối lộ hoặc gian lận bằng
cách nào mà ta có thể đổi được định luật nhân qủa, cũng không thể lẩn trốn nơi
nào, dầu trên trời lồng lộng mênh mông, giữa đại dương sâu thẳm hoặc ở thâm sơn
cùng cốc mà ta có thể tránh khỏi hậu quả của nghiệp bất thiện đã tạo. Không có
vị Trời nào, chí đến Ðức Phật đi nữa, có thể can thiệp vào sự báo ứng của
nghiệp. Qủa của nghiệp trộm cắp là nghèo nàn, khốn khổ, bị thất vọng và làm
thân nô bộc.
Năm chi tạo nghiệp trộm cắp là: Có
một vật sở hữu của người khác, mình biết như vậy, mà có ý định đoạt vật ấy làm
sở hữu của mình, rồi cố gắng đoạt lấy.
Người thực hành Chánh Nghiệp lánh
xa mọi hình thức trộm cắp, dầu là sự trộm cắp hiển nhiên, lộ liễu hay vi tế,
kín đáo, ẩn núp dưới một lớp gì khác, trái lại, luôn luôn cố gắng phát triển
những đức hạnh thanh bạch, liêm khiết, chân thật và chánh trực.
c. Không tà dâm: tức là giữ gìn đời sống gia đình
cho được trong sạch, không lang chạ phóng túng, là pháp tu học thứ ba trong
Chánh Nghiệp.
Về phương diện luân lý giới này
nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình, không để cho người ngoài xâm phạm vào tình
trạng an lạc trong nhà, tạo sự tín cẩn lẫn nhau và xiết chặt tình nghiã giữa vợ
và chồng. Về mặt đạo đức, giới này giúp làm giảm thiểu năng lực tự nhiên có
chiều hướng lan rộng của dục vọng và đằng khác tăng trưởng hạnh từ khước buông
bỏ và tự chế của lối sống thanh cao.
Lẽ dĩ nhiên đời sống độc thân của
các vị tu sĩ chân chánh là hình thức trong sạch đáng qúy trọng nhất, vì các
Ngài có thể tận dụng tất cả năng lực và thì giờ của mình để phục vụ kẻ khác.
Tuy nhiên, Ðức Phật là vị giáo chủ thực tế, Ngài không bao giờ trông chờ hàng
tín đồ tại gia cư sĩ sống cuộc sống của các bậc xuất gia. Hiểu biết bản năng và
những kích thích của đời sống, khát vọng và những thúc giục của con người Ðức
Bổn Sư không ép buộc người Phật Tử cư sĩ sống tuyệt đối độc thân như các vị Tỳ
Khưu. Nhưng Ngài khuyên chúng ta nên thận trọng, đừng để sai lầm làm nô lệ cho
thể xác và do đó, làm giảm suy phẩm giá con người.
Quả của nghiệp Tà dâm là có nhiều
kẻ thù và đời sống gia đình, giữa vợ và chồng, không có hạnh phúc.
Chánh mạng
Chánh Mạng là hành nghề chân chánh
để nuôi mạng. Kinh sách thường đề cập đến năm nghề không nên làm là: Buôn bán
khí giới, nuôi hay bán thú để làm thịt, buôn bán người để làm nô lệ, buôn bán
độc dược, buôn bán rượu và các chất say. Tinh thần của năm điều kiêng cữ này là
không nên nuôi mạng sống bằng những nghề mà, trong khi hành , ta trực tiếp hay
gián tiếp tạo nghiệp bất thiện.
Trong bài thuyết minh về Tứ Diệu
Ðế, đạo hữu V.F. Gunaratna viết:
"...Cuộc chiến đấu để sống và
những nhu cầu khẩn thiết được tạo nên để bảo tồn đời sống cá nhân và nuôi sống
gia đình bắt buộc con người phải xem công cuộc làm ăn sinh sống là một vấn đề
trọng đại và do đó, có một thúc dục cấp bách đẩy con người đi dài theo kiếp
sống để thành tựu điều này.
"Xét rằng những gì công bằng
và lịch sự đều bị vứt bỏ, biến tan theo chiều gió, và xét rằng những hậu qủa
tai hại sẩy đến cho kẻ khác sẽ bị lãng quên, không ai để ý đến, con người có
thể bị quyến rũ đi vào con đường bất chánh. Ðó là điều mà chúng ta phải thận
trọng giữ mình, đừng để bị rơi vào những quyến rũ tương tợ. Bằng mọi giá chúng
ta phải giữ cho Chánh Mạng của mình được trong sạch. Yếu tố Chánh Mạng dẫn đến
giới đức trong sạch, người hành nghề theo đúng Chánh Mạng mới có thể trang
nghiêm trì giới, bằng cách tránh xa sự buôn bán khí giới, bán thú để làm thịt,
bán người làm nô lệ, bán rượu, bán độc dược.
"Thông thường ta nghĩ rằng
phải tránh chỉ có bấy nhiêu nghề đó để giữ cho Chánh Mạng được trong sạch.
Không phải chỉ có vậy. Trong bộ Trung A Hàm, Majjhima Nikãya, có đoạn ghi rằng
hành những nghề có "sự lường gạt, nịnh bợ, mờ ám, chia rẽ, cố ăn" đều
được sxem là không Chánh Mạng. Một cách tổng quát , như đã ghi trong Trường A Hàm
Dĩgha Nikãya, Chánh Mạng được xem là tránh xa những lối sống bất chánh và sống
đời chân chánh."
Các vị Tỳ khưu sống không nhà cửa,
không gia đình, và tất cả tài sản chỉ bao gồm có bộ y và bình bát. Các Ngài
không phải buôn bán hay làm lụng để sinh sống như người tại gia cư sĩ nhưng
cũng có giới Chánh Mạng. Ngài Ðại Ðức Ledi Sayadaw phân làm bốn loại Chánh Mạng
cho các vị tu sĩ là:
1. Tránh xa sự nuôi mạng bằng
những phẩm hạnh sai lạc như phạm một trong ba thân bất thiện nghiệp và bốn khẩu
bất thiện nghiệp.
2. Tránh xa sự nuôi mạng bằng
những phương tiện bất chánh, đối với nhà sư như nịnh bợ, đưa thơ từ qua lại
v..v...
3. Tránh xa sự nuôi mạng bằng cách
gạt gẫm người khác như dụ dỗ người theo mình tu học để được phép thần thông hay
khoe mình đã đắc Thánh Qủa, hay nói cho người ta bực mình phải cho ra một vật
gì để mình đi cho rồi, hoặc nữa, bỏ ra một món quà nhỏ để câu lấy một món qúy
giá hơn...
4. Tránh xa sự nuôi mạng bằng
những kiến thức trần tục như coi tướng số, bói quẻ...
Tóm lại, Chánh Mạng tạo điều hòa
trong đời sống xã hội và đem lại an lành hạnh phúc cho từng cá nhân. Nếu người
sống tà mạng hàng ngày gạt gẫm, giết chóc, hoặc say sưa, trộm cắp và do đó gây
xáo trộn cho toàn thể cộng đồng thì người có Chánh Mạng đem lại tình trạng an
toàn, hòa hợp cho tất cả mọi người.
Ba chi Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp,
Chánh Mạng hợp thành phân hạng giới, hay phần luân lý trong Bát Chánh Ðạo. Giới
là những quy tắc đạo đức có tác dụng như tấm bảng màu đỏ dựng bên lrề đường để
cảnh cáo hiểm họa sa đọa, những gì không nên làm, những điều nên tránh
(varitta). Ðằng khác Giới cũng là nếp sống kỷ cương được xem như những tảng đá
vững chắc cẩn trên con đường đưa đến an tĩnh hoàn toàn, hạnh phúc tuyệt đối,
những gì nên làm (caritta).
Giới được ban hành nhằm tạo thân
và khẩu nghiệp trong sạch, nhưng chính phẩm hạnh tuyệt hảo tự nó chỉ là phương
tiện. Mục tiêu tối hậu của Giới - hiểu theo Bát Chánh Ðạo - là thoát ra khỏi
mọi hình thức khổ đau của đời sống và vượt đến hạnh phúc trường cửu, Niết Bàn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét