Phần 3
Con đường cũ xa xưa: Bát Chánh Ðạo
Trong những năm gần đây, từ khắp
nơi trên thế giới đã vang lên nhiều tiếng kêu báo động nạn ô nhiễm. Người ta lo
sợ ô nhiễm thành phố, ô nhiễm không khí, ô nhiễm biển cả, ô nhiễm sông ngòi
v.v... người ta gia công khảo sát, thí nghiệm, nghiên cứu và tiêu hao biết bao
tiền của, năng lực, thì giờ để tìm phương cách bài trừ các loại ô nhiễm thị
giác, ô nhiễm thính giác, ô nhiễm tỷ giác v.v...
Còn ô nhiễm tâm trí thì sao? Các
bơn nhơ tinh thần mà, kẻ ít người nhiều, chúng ta đã mang theo đến đây từ vô
lượng kiếp thì thế nào?
Cách đây hơn 25 thế kỷ Ðức Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni đã nhận thấy mối hiểm họa vô cùng tai hại của ô nhiễm tinh thần
và Ngài cảnh giác:
"Không có lửa nào như tham ái, không có ngục tù nào như sân
hận, không có màn lưới nào như si mê, và không có dòng sông nào như ái
dục." (Kinh Pháp Cú, câu 251)
Lửa trên thế gian dầu nóng như thế
nào, ngục tù kềm kẹp của thế gian dầu khắc nghiệt, tàn ác đến đâu, những màn
lưới của thế gian có chặt chẽ tệ hại ra sao, cũng chỉ thiêu dốt, gây đau khổ
hay trói buộc ta suốt trọn một kiếp sống là cùng. Nhưng ô nhiễm tinh thần sẽ đi
theo chúng ta từ kiếp này sang kiếp khác, mãi mãi, triền miên, trong vòng luân
hồi, nếu chúng ta không biết chấm dút. Ái dục sẽ lôi cuốn và đẩy mạnh chúng ta
vào biển khổ trầm luân.
Sáng suốt nhận định rằng bản chất
của đời sống l;à đau khổ và nguyên nhân của đau khổ là ái dục. Ðức Phật vạch ra
một lối sống, tự bản thân khép mình vào lối sống đạo đức ấy, thành đạt mục tiêu
cứu cánh một cách vẻ vang và mở lòng từ mẫn khai hóa những ai có tai muốn nghe,
có tâm trí muốn suy tư và có ý chí để thực hành. Ðức Phật dạy:
"Bây giờ, này hỡi chư Tỳ
Khưu, đây là chân lý về Con Ðường dẫn đến diệt khổ. Ðó là Bát Chánh Ðạo: Chánh
Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh
Niệm, Chánh Ðịnh. "
Ðây là Con Ðường chia làm tám chi
bao gồm tám năng lực tinh thần hùng mạnh và có tính cách thiện. Tám chi của con
đường phải được tập trung lại để đánh đổ một năng lực bất thiện, ái dục, dai
dẳng ngủ ngầm bên trong ta.
Chánh kiến
Chánh kiến là tri kiến chân chánh,
hiểu biết đúng đắn, sự vật như thế nào thì hiểu biết đúng như vậy. Hiểu sâu vào
bên trong thực tướng của sự vật chớ không phải hiểu phớt trên bề mặt. Ðến mức
cùng tột, Chánh Kiến là thấu triệt thực tướng của ngũ uẩn, tức thấu triệt bản
chất của chính mình. Nói theo một cách, Chánh Kiến là chứng ngộ Tứ Diệu Ðế. Tuy
nhiên, trước khi đạt đến từng hiểu biết cao siêu ấy, trong ý nghiã thông
thường, Chánh Kiến là phân biệt chánh tà, biết điều nào là thiện và điều nào
bất thiện. Muốn thực hành Giáo Pháp mà không có nền tảng Chánh Kiến vững chắc
lắm khi phải lầm đường lạc nẻo, thay vì hướng về mục tiêu, càng tách rời ra.
Chính quan kiến hướng dẫn hành
động. Sự hiểu biết của chúng ta luôn luôn nằm phiá sau nỗ lực của chúng ta. Nếu
hiểu biết sai lầm, tà kiến sẽ dẫn dắt đến những hành động lầm lạc có tác dụng tạo
đau khổ. Ngược lại, nếu hiểu biết chân chánh, Chánh Kiến sẽ đưa đến hành động
chân chánh và do đó, hướng về con đường thoát khổ. Mặc dầu sự hướng dẫn sơ khởi
này vẫn còn là một khái niệm mù mờ, hình như không đưa đến hậu quả nào quan
trọng, nhưng nhìn lại tận tường, đó là bứơc đầu có tánh cách quyết định cho cả
toàn thể tiến trình phát triển tinh thần trong tương lai.
Theo một lối phân hạng, Chánh Kiến
có ba là:
1. Sự hiểu biết chân chánh rằng ta là sở hữu chủ của nghiệp mà ta
đã tạo.
Ðức Phật dạy:
"Tất cả chúng sanh là sở hữu
chủ của cái nghiệp của mình, là thừa kế cuả cái nghiệp của mình, sanh ra do
nghiệp của mình, là họ hàng thân thuộc của cái nghiệp của mình, ẩn náu trong và
được nâng đỡ bởi, cái nghiệp của mình. Bất luận nghiệp nào mà ta đã tạo, dầu
thiện hay bất thiện, thì ta sẽ là thừa kế, hưởng trọn hậu quả của nó."
Trong đời sống ta có thể cần cù
làm lụng, kiệm cần dành để và tạo nên nhà cửa, sự nghiệp, vàng vòng, trang sức
v.v... Ta cũng có thể thừa hưởng những sở hữu trên do ông bà cha mẹ truyền lại.
Ta gọi đó là "của mình", hay nói "mình" là sở hữu chủ của
những vật đó. Tuy nhiên, dầu ta có bám chắc, nắm chặt và tận lực gìn giữ đến
đâu, nó vẫn ở với ta một cách tạm thời. Bao nhiêu yếu tố như hỏa hoạn, bão lụt,
trộm cướp, kẻ thù nghịch, chiến tranh v.v... và cuối cùng cái chết phải đến,
luôn luôn sẵn sàng để tước đọat quyền làm chủ của ta. Chỉ có một điều -- nghiệp
thiện hay nghiệp bất thiện mà ta đã tạo -- sẽ không bao giờ rời ta, dầu ở trong
kiếp sống này hay trong nhiều kiếp vị lai. Không có kẻ thù nghịch hay trộm cướp
nào tranh đoạt, không có chiến tranh hay thiên tai nào tiêu hủy, chí đến cái
chết cũng không làm mất mát hay sứt mẻ cái nghiệp của ta. Do đó, Ðức Phật dạy
rằng: "Tất cả chúng sanh là sở hữu chủ của cái nghiệp của mình".
Vì cái nghiệp mà ta đã tạo theo
dính liền với ta, ta sẽ thừa hưởng hậu quả của nó như phần di sản, ta sẽ tái
sanh vào trạng thái nào cũng do nơi nó, nó là những người họ hàng thân thuộc
không bao giờ rời ta. Ta sẽ ẩn náu an toàn trong thiện nghiệp và nhờ thiện nghiệp
nâng đỡ. Nó như người bạn tốt đón chờ ở một cảnh giới nào trong tương lai để hỗ
trợ ta. Vậy, ta phải chăm sóc, giữ gìn cái nghiệp cho được luôn luôn tốt đẹp.
Ðôi khi có người nói, "Tôi ăn hiền ở lành, không trộm cướp gì của ai, vậy
là đủ rồi, cần gì phải tu." Nói như vậy nghe thóang qua hình như hữu lý.
Nhưng ăn hiền ở lành là thế nào? Theo người đời, đi câu cá, săn thú hay trà
đình, tửu quán là thú tiêu khiển thanh nhàn, cướp sự sống của sinh vật để nuôi
mạng sống mình hay để hỷ hả tiệc tùng là tự nhiên, và ta tạo bao nhiêu bất
thiện nghiệp khác một cách vui vẻ, tự nhiên. Ta phải biết thương, biết bảo tồn
nghiệp thiện hơn là thương yêu và bỏa tồn chính sự sống của ta. Ta phải biết
sợ, biết lánh xa bất thiện nghiệp, hơn là ta sợ lánh xa cái chết của chính ta.
Thế thường, ta sợ chết và muốn sống. Ðể bảo tồn sự sống và ngăn chặn cái chết,
lắm khi ta hành động bất chánh và do đó, tạo nghiệp bất thiện vô cùng tai hại
mà trong nhiều kiếp sống chính ta phải gánh chịu hậu quả. Nên nhớ rằng chết ở
đây là tái sanh, sống lại ở nơi khác, và khi rời bỏ cảnh giới hiện tại ta cũng
lià bỏ tất cả, chỉ mang theo cái nghiệp mà ta đã tạo. Trong quyển The Buddha
and his Teachings (Ðức Phật và Phật Pháp), cố Ðại Ðức Nãrada viết:
"Tài sản sự nghiệp mà ta trìu
mến bao nhiêu, thân bằng quyến thuộc mà ta yêu qúy bao nhiêu, sẽ không đi theo
ta. Chắc chắn như vậy. Cho đến cơ thể này mà ta gọi là "Của Ta" cũng
vậy. Từ cát bụi nó đến. Nó sẽ trở về với cát bụi. Danh vọng ảo huyền, vinh
quang trống rỗng, tất cả đều tiêu tan theo mây theo gió. Vẫn một thân một mình
chúng ta phiêu bạt trong cơn bão táp, giữa đại dương của vòng luân hồi, trôi
giạt đó đây theo cái nghiệp."
2. Sự hiểu biết chân chính về
thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, về hậu quả của nghiệp đã tạo, về sự hiện hữu
của những cảnh giới ngoài cảnh người, về sự hiện hữu của những năng lực siêu
phàm.
Nghiệp là hành động tác ý được
thực hiện bằng ba đường lối: Tư tưởng, lời nói, việc làm. Tất cả những hành
động có tác ý, thực hiện bằng thân, khẩu, ý, dầu thiện hay bất thiện, đều tạo nghiệp.
Những hành động không cố ý, không chủ tâm, nghiã là không có tác ý (cetanã),
đều không tạo nghiệp mặc dầu đã biểu hiện ra ngoài bằng lời nói hay việc làm.
Hành động thiện tạo nghiệp thiện
và đến hậu quả là hạnh phúc, tinh thần hay vật chất. Hành động bất thiện đưa
đến thọ khổ, vật chất hay tinh thần.
-- Ba hành động tạo bất thiện nghiệp bằng thân là: sát sanh, trộm
cắp, tà dâm.
-- Bốn hành động bất thiện nghiệp bằng lời nói là: Nói dối, nói
đâm thọc, nói thô lỗ cộc cằn, nói nhảm nhí.
-- Ba hành động tạo bất thiện nghiệp bằng ý là: Tư tưởng tham lam,
sân hận và tà kiến.
Những hành động đối nghịch với
mười điều kể trên ( như tâm từ, lòng thương chúng sanh, bố thí v.v...) được
biểu hiện qua ba đường lối thân, khẩu, ý, dầu nhằm mục đích tạo dựng tài sản,
để sinh sống hay để vun bồi kiến thức, đều được xem là thiện nghiệp.
Người có Chánh Kiến hiểu biết chân
chính rằng những hành động như bố thí vật thực cho thú, cho người cư sĩ hay
dâng cúng đến chư Tăng, nếu làm với tâm từ, sẽ đem lại hậu quả tốt đẹp, trong
kiếp sống này và nhiều kiếp khác. Dầu cúng dường đông đảo chư Tăng với nhiều lễ
vật qúy giá hay tặng một món qùa nhỏ mọn, nếu làm với tâm từ, vì lòng tốt,
thương, muốn giúp người, vì lòng thành thật muốn đem phúc lợi đến cho người,
hành động ấy sẽ tạo quả phúc cho người làm. Cùng thế ấy, những hành động như
thọ trì Bát Quan Trai Giới trong những ngày giới, hằng giữ năm giới, tham
thiền, quy y Tam Bảo v.v... đều tạo thiện nghiệp.
Người tà kiến chủ trương rằng mỗi
người chỉ sống vỏn vẹn một kiếp, và tất cả năng lực --tinh thần cũng như vật
chất - đều chấm dứt khi đời sống này chấm dứt. Chết là hết. Sau khi chết con
người bỏ lại tất cả mọi năng lực phát nguyên trong đời sống và trở lại hoàn
toàn hư vô, hoàn toàn tiêu diệt. Ðối với những người này bất luận hành động
nào, dầu thiện hay bất thiện, cũng không đem lại hậu quả nào. Không nhân, quả,
không nghiệp báo. Vì quan niệm như vậy, lý tưởng của họ là cứ tận hưởng mọi lạc
thú trên đời, hưởng thọ càng nhiều càng tốt và có thể làm bất cứ gì dầu có hại
ai khác.
Hiểu rằng mọi hành động thiện và
bất thiện đều đem lại hậu quả; hiểu rằng phụng dưỡng cha mẹ, làm cho cha mẹ hữu
phúc là tạo thiện nghiệp và sẽ được phước báu về sau; hiểu rằng thật sự có
những chúng sanh hóa sanh, đột nhiên được sanh ra, bỗng nhiên xuất hiện mà
không phải trải qua hình thức thai bào nào; hiểu rằng có cảnh giới này cũng có
những cảnh giới khác. Những hiểu biết như vậy là chân chánh. Người có Chánh
Kiến cũng hiểu biết rằng trong thế gian có những bậc cao minh, có khả năng siêu
phàm như các bậc Thánh Tu Ðà Hườn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán.
3. Sự hiểu biết chân chánh về Tứ Diệu Ðế.
Ðến mức cùng tột, Chánh Kiến là
hiểu biết chân chánh về bốn Chân Lý Thâm Diệu trong thế gian (Tứ Diệu Ðế).
Chánh kiến ở mức sơ khởi là hiểu
đúng con đường. Như người kia lạc nẻo, bỡ ngỡ trước nhiều ngả đường vì không
biết chọn ngả nào, may thay chợt nhận ra tấm bảng chỉ đường bên canh một con
đường mòn xưa cũ. Bảng chỉ đường là Giáo Pháp của Ðức Phật, khách lữ hành thênh
thang lạc bước là phần đông chúng ta, những người sơ cơ, đường mòn là Con Ðường
Cũ Xa Xưa mà chư Phật đã trải qua.
Vào giai đoạn đầu, Chánh Kiến là
những hiểu biết chân chánh đưa hành giả đến hành động trong sạch, tạo thiện
nghiệp để thọ hưởng những trạng thái nhàn lạc trong vòng luân hồi. Cũng có người
đã lãnh hội đầy đủ luật nhân quả mà vẫn còn tự hạn chế ước vọng của mình trong
những thành tựu của thế gian. Những người này có những hành động đạo đức thanh
cao để tích trữ phước báu và thọ hưởng khoái lạc, danh vọng, quyền thế v.v...
trần gian, trong cảnh người, hoặc thọ sanh vào những cảnh Trời nhàn lạc. Tuy
nhiên, trong sự hiểu biết bằng lý trí - Chánh Kiến ở tầm mức tại thế - không có
gì để đưa con người vượt lên khỏi định luật nghiệp báo, thoát ra khỏi vòng tạo
nhân và gặt quả. Ðể giải thoát hoàn toàn ra khỏi vòng sanh tử luân hồi cần phải
có sự hiểu biết sâu sắc, nhận chân thực tướng của vạn pháp, Chánh Kiến siêu
thế.
Chánh Kiến cao siêu có khả năng
đưa đến giải thoát là hiểu biết Tứ Diệu Ðế. Ðức Phật dạy:
"Bây giờ, Chánh Kiến là gì?
Ðó là hiểu biết đau khổ, hiểu biết nguyên nhân sanh khổ, hiểu biết sự chấm dứt
đau khổ, và hiểu biết con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ." (Dĩgha Nikãya,
Trường A Hàm , bài kinh số 22)
Bát Chánh Ðạo bắt đầu với một khái
niệm về Tứ Diệu Ðế, chỉ hiểu biết mù mờ xuyên qua lý trí và tiến dần đến tuyệt
đỉnh là trực giác chứng nghiệm, thấu triệt những chân lý cao siêu thâm diệu ấy
và trở nên hoàn toàn giác ngộ. Như vậy, có thể nói rằng hiểu biết Tứ Diệu Ðế là
bước đầu mà cũng là mục tiêu tối hậu của con đường thoát khổ.
Ba chân lý đầu tiên của Tứ Diệu Ðế
-- Khổ Ðế, Tập Ðế và Diệt Ðế -- là quan điểm của Phật giáo về kiếp nhân sinh.
Dựa trên triết thuyết này Ðức Phật vạch ra một lối sống thích nghi đưa đến
trạng thái tâm tuyệt đối trong sạch và trí tuệ toàn hảo. Ðó là Bát Chánh Ðạo,
phần thực hành trong Phật Giáo. Ðó cũng là con đường được gọi là "Trung
Ðạo" (Majjhimã Patipadã), tránh xa hai cực đoan. Một bên là lối sống lợi
dưỡng, thấp hèn, của người buông lung, đắm chìm trong dục lạc. Bên khác là lối
sống khắc khổ, vô bổ và vô nghiã lý, của những người ép xác khổ hạnh cuồng tín.
Trung đạo là con đường trải dài ở khoảng giữa hai cực đoan ấy, là con đường của
lý trí và thận trọng.
Chánh Kiến về Tứ Diệu Ðế phát
triển qua hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên được gọi là Chánh Kiến phù hợp với
chân lý (saccanulomika sammãditthi: Sammãditthi là Chánh Kiến, Sacca là chân
lý, Amulomika là thuận chiều với, đúng với, phù hợp với ). Giai đoạn thứ nhì là
Chánh Kiến thâm sâu vào chân lý, thấm nhuần chân lý (saccapativeda sammãditthi:
Pativeda là đi sâu vào, thấm sâu vào bên trong). Chánh KIến phù hợp với chân lý
là hiểu biết rõ ràng ý nghiã của bốn chân lý cao siêu thâm diệu (Tứ Diệu Ðế)
của đời sống. Sự hiểu biết này phát sanh do nhờ học hỏi và nghiên cứu những
chân lý ấy. Sau đó, nhờ suy tư sâu vào mà ánh sáng của kinh nghiệm rạng chói
dần dần đến lúc vữnbg chắc tin tưởng như vậy.
Tuy nhiên, chí đến mức độ này hành
giả cũng chưa hoàn toàn thấm nhuần chân lý. Sự hiểu biết của hành giả đến lúc
bấy giờ chưa tuyệt đối là hoàn bị vì đó chỉ là một quan niệm rõ ràng, thay vì
là tri giác.
Muốn tiến đến thực sự chứng nghiệm
phải trải qua thời gian thực hành pháp môn thiền định: Trước tiên là an trụ tâm
vững chắc và sau đó trau giồi và phát triển Tuệ Minh Sát ( Vipassanã).
Tuệ minh sát phát sanh do nhờ quán
chiếu và sáng suốt suy niệm về ngũ uẩn, những yếu tố của kiếp sinh tồn, để phân
biện rõ ràng những đc điểm của nó. Ðến mức tuyệt đỉnh của cong trình suy niệm
này hành giả tách rời cái nhìn của mình ra khỏi những hiện tương hữu lậu của
ngũ uẩn và nhắm vào trạng thái vô lậu Niết Bàn. Lúc bấy giờ, nhờ Tuệ Minh Sát
sắc bén thâm sâu, Niết Bàn đã có thể được thành tựu. Ðến đây hành giả chứng ngộ
Niết Bàn. Ái Dục đã chấm dứt. Trí tuệ đã bừng sáng và hành giả rõ ràng thấy
rằng ái dục thật sự là nguyên nhân của mọi hình thức đau khổ và Bát Chánh Ðạo
thật sự là con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ. Như vậy, Chánh Kiến thấm nhuần
Tứ Diệu Ðế phát sanh vào giai đoạn cuối cùng của con đường, chớ không phải vào
lúc sơ khởi.
Giai đoạn đầu tiên của người có
Chánh Kiến là nhận ra Con Ðường. Rồi từ đó đặt chân lên Con Ðường và, nhờ Chánh
Kiến soi đường, tiến dần đến mức cùng tột là chứng ngộ thực tướng của vạn pháp.
Chánh tư duy
Chi thứ nhì của Bát Chánh Ðạo là
Chánh Tư Duy (Sammã Sankappa. Sammã là đúng, chân chánh. Sankappa. là suy tư,
có nguyện vọng, có ý định). Chánh Tư Duy là suy tư chân chánh, trong ý nghiã có
những tư tưởng hướng đến hành động chân chánh, là quyết định hay lập tâm quyết
đến hành động chân chánh.
Tư tưởng chân chánh bắt nguồn từ
sự hiểu biết chân chánh và dẫn đến hành động chân chánh. Người hiểu biết chân
chánh (Chánh Kiến) ắt suy tư chân chánh (Chánh Tư Duy). Ðàng khác, người suy tư
chân chánh ắt cũng hiểu biết chân chánh. Một tri kiến thâm diệu về bản chất
thật sự của kiếp sinh tồn được hoàn mãn thành tựu nhờ suy tư sâu sắc và quán
trạch tận tường sẽ đưa đến giá trị tinh thần đạo đức hướng dẫn tâm đến hành
động chân chánh, tương xứng với tri kiến.
Như vậy, hai chi đầu của Bát Chánh
Ðạo - Chánh Kiến và Chánh Tư Duy - liên quan với nhau mặt thiết và ảnh hưởng
với nhau rất chặt chẽ. Hai chi này hợp thành giai đoạn "Tuệ" của Con
Ðường Giải Thoát. Chánh Tư Duy nằm khoảng giữa và làm gạch nối liền, một bên là
Chánh Kiến và bên kia là bộ ba Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng.
Từ hiểu biết chân chánh phát sanh
những tư tưởng chân chánh, dẫn dến hành động chân chánh biểu hiện bằng lời nói
chân chánh, tạo nghiệp chân chánh và nuôi mạng chân chánh. Ðiều này cho ta thấy
rằng Chánh Tư Duy không phải chỉ là suy tư suông mà là suy tư bắt nguồn từ hiểu
biết chân chánh và đưa đến hành động chân chánh.
Sammã Sankappa, Chánh Tư Duy, là
có những tư tưởng chân chánh, mà cũng có nghiã là quyết định chân chánh, tức
có:
1.
Những
tư tưởng khước từ, buông bỏ, không luyến ái, thiên về xuất gia.
2. Những tư tưởng không thù hận và
3. Những tư tưởng không hung bạo.
1. Tư tưởng khước từ
Luyến ái là một hình thức ái dục,
mà ái dục là nguyên nhân sanh khổ. Do đó, loại suy tư chân chánh đầu tiên là
không luyến ái mà buông bỏ, khước từ. Danh từ Pali mà Ðức Phật dùng ở đây là
nekkhama, Xuất gia, có nghiã là khước từ những lạc thú trần gian để chọn lấy
đời tu sĩ.
Dĩ nhiên, nhận thức rằng xa hoa
vật chất là ảo huyền và thú vui vật chất không tạo hạnh phúc thật sự vũng bền
rồi tự nguyện lià bỏ tất cả sự nghiệp trên đời để khoác tấm y vàng, làm người
không nhà cửa, không của tiền, không gia đình, tự ý cam khổ, nghèo nàn, đơn
giản, để cố gắng sống hoàn toàn trong sạch là hình thức khước từ cao thượng
nhất. Tuy nhiên, Ðức Phật không bao giờ khuyên dạy tất cả mọi người đều nên ly
gia cắt ái. Ngài chỉ dạy rằng dầu xuất gia hay cư sĩ, chúng ta nên thận trọng
nhận thức mối nguy hại của nhục dục ngũ trần mà Ngài ví như cục xương khô, như
ngọn duốc mà ta cầm đi ngược chiều giáo, như một hầm than đỏ, như một giấc mơ,
như vật vay mượn v.v... Ngài dạy:
"Này chư Tỳ Khưu, thú vui của
nhục dục ngũ trần quả thật là tạm bợ, vô thường, là trống rỗng, là giả tạo, là
không thực..."
Có những tư tưởng buông bỏ, từ
khước những dục vọng trần tục, không luyến ái vị kỷ vào tài sản sự nghiệp, xa
lánh cuộc đời phồn hoa đô hội và khoái lạc vật chất, không triù mến, luyến ái
cái "Ta" , không bám chặt, đeo niú đời sống, là loại Chánh Tư Duy đầu
tiên.
Ðức Phật mô tả giáo lý của Ngài là
con đường ngược chiều với thời gian.
"Chắc như vậy, con đường dẫn
đến lợi lộc của trần gian là một, và con đường dẫn đến Niết Bàn là con đường
khác. Thông hiểu như vậy, thầy Tỳ Khưu đệ tử Phật không nên thỏa thích trong
mùi danh bả lợi của thế gian mà phải trau giồi hạnh buông bỏ." (Kinh Pháp
Cú , câu 75)
Con đường của thế gian là con
đường tham ái, dục vọng. Con người thế gian đi dài, thuận chiều theo con đường
ấy, mưu tìm hạnh phúc trong sự thỏa mãn tham dục của mình. Giáo Huấn Buông Bỏ
mà Ðức Thế Tôn ban truyền kháng cưỡng chống lại sức lôi cuốn như thác lũ của
tham vọng, đi dần đến mức chấm dứt ái dục và tìm hạnh phúc, không phải trong sự
thỏa mãn, mà trong sự dứt bỏ, từ khước ái dục.
Dầu là bậc xuất gia hay hành tại
gia cư sĩ, nguyên tắc chỉ đạo chính yếu vẫn được ghi nhận là phải hoàn toàn tận
diệt mọi hình thức ái dục mới có thể thành tựu giải thoát trọn vẹn. Từng bước
một càng xa lià ái dục là càng đến gần giải thoát. Biết rằng ái dục là nguồn
cội phát sanh đau khổ và biết rằng chấm dứt hay giảm suy đau khổ đến mức độ nào
là tùy thuộc ở sự chấm dứt hay mức độ giảm suy ái dục, người Phật Tử thuần
thành cố gắng phát triển tâm buông bỏ.
Nhưng chính tại điểm này ta gặp
phải sức kháng cự mạnh mẽ từ bên trong. Từ lâu, tâm chúng sanh đã quen thâu
đạt, cố bám, nắm giữ và tích trữ. Thói quen ấy đã trở thành bản tánh tự nhiên,
không dễ gì dùng ý chí mà thay đổi. Dầu lý trí có ưng thuận buông bỏ nhưng tâm,
vị ảnh hưởng của ái dục , vẫn còn khư khư chấp thủ, không khứng chịu khước từ.
Do đó, vấn đề bây giờ là làm thế nào để gỡ cái tâm ra khỏi sự chi phối của ái
dục. Ðức Bổn Sư không dạy phải đè nén hay cưỡng bách, xua đuổi ái dục ra khỏi
tâm, vì đó chỉ là giải pháp tạm thời. Công cụ mà Ðức Thế Tôn trao truyền để
diệt trừ ái dục là tri kiến, hiểu biết chân chính bản chất của sự vật.
Dứt bỏ, từ khước, thật sự không
phải là vấn đề tự ép buộc mình cố gắng buông bỏ nhưng gì mà sâu kín trong lòng
mình vẫn còn tưng tiu, ôm ấp, mà là vấn đề tự mình thay đổi quan kiến của mình,
nhìn sự vậy dưới ánh sáng trí tuệ. Khi chúng ta quán trạch tận tường và thấu
triệt đầy đủ bản chất thật sự của ái dục và những đối tượng của nó thì chính nó
sẽ tan biến mà không cần phải chiến đấu.
Một em bé đang say mê giữa đám đồ
chơi của em. Nếu có ai đến xin hoặc dựt của em một món ắt là em khóc la và
tranh đấu giành lại cho kỳ được. Nhưng em bé lớn dần. Ðến một ngày nào em sẽ
không còn bám níu vào những đồ chơi ấy nữa mà để mặc tình ai lấy đi hay làm gì
cũng được. Tại sao? -Vì em đã trưởng thành.
Cũng dường thế ấy, ngày nào ta
nhận thức rằng ái dục là nguồn gốc của khổ đau, và đau khổ luôn luôn dính liền
với ái dục, bởi vì ái dục là khát khao và bám chặt vào một cái gì không ngừng
biến chuyển, một cái gì không thật sự có thì làm sao tránh khỏi sầu muộn, đau
buồn, thất vọng. Ðến chừng ấy ta sẽ không còn luyến ái và cố bám, cố giữ những
gì mà lúc nào tưởng chừng như đó là nguồn hạnh phúc duy nhất trên đời
Ta có thể tưởng tượng rằng từ bỏ
ham muốn để vượt đến buông bỏ là một hình thức khổ hạnh, là từ sung sướng trở
thành gian khổ, từ phong phú dồi dào trở nên nghèo nàn thiếu thốn, từ hạnh phúc
thành sầu muộn. Nhưng thật sự, đó là đi từ thỏa thích thô kịch đến hạnh phúc
tinh vi tế nhị, êm dịu và thâm trầm, từ những thú vui đầy phiền lụy và cạm bẫy
đến an lạc, thanh bình và thật sự châu toàn... từ nô lệ đến tự do.
Chuyển biến này sẽ không xảy điễn
nhanh chóng hay một cách dột ngột. Nhưng nếu ta chuyên cần tu nệim ắt một ngày
nào nó sẽ đến... như một ngày nào em bé trưởng thành.
2. Tư tưởng không thù hận: hàm ý là tâm từ.
Tâm từ trong Phật giáo là tình
thương rộng lớn bao la, không có bất luận giới hạn hay sự phân biệt nào mà cũng
thâm diệu đậm đà như tình thương của một bà từ mẫu đối với người con duy nhất
của bà.
Có những lời dạy nên thương người
láng giềng, người đồng đạo, người đồng chủng, người đồng hương, người đồng chí,
người đồng loại v.v... Tất cả những tình thương ấy đều trong sạch, tốt đẹp và
cần thiết trong xã hội. Nhưng đó không phải là tâm từ trong Phật Giáo vì có sự
phân biệt và có giới hạn trong tình thương. Ðó là tình thương giới hạn trong
cái "đồng" Ðây là "Ta". Giữa đây và chúng sanh nào có một
điểm gì chung, một cái gì "đồng" với cái "Ta" ấy thì có
tình thương. Ðồng thời có sự phân biệt với những người khác, những người không
có gì "đồng". Thương người láng giềng "Của Ta", người chung
một tôn giáo với "Ta" , cùng một chủng tộc với "Ta", một xứ
sở với "Ta" v.v... Lấy cái "Ta" làm trung tâm điểm rồi từ
đó tình thương phát tủa ra như ánh sáng một ngọn đèn trong căn phòng, giới hạn
bên trong bốn vách. Ðó là bản chất tự nhiên của con người. Tình thương vẫn là
tình thương, với tất cả những gì tốt đẹp, dịu hiền, dễ mến của nó. Xã hội không
thể tồn tại nếu không có những tình thương ấy.
Ở đây chỉ muốn nói rằng tâm từ của
Phật Giáo không phải như vậy. Tâm từ phải bao trùm toàn thể chúng sanh, toàn
thể càn khôn vũ trụ, vô lượng, vô biên, không có sự phân biệt nào. Người có tâm
từ phải vượt lên khỏi mọi hình thức chia rẽ, riêng tư, không bị giam hãm trong
những tư tưởng hẹp hòi, không chịu ảnh hưởng của tinh thần đấu tranh giai cấp,
quốc gia, chủng tộc, tôn giáo mà nhìn tất cả thế gian là quê hương của mình, và
mỗi người, mỗi chúng sanh, là bạn đồng hành trong đại trùng dương mà ta gọi là
đời sống của muôn loài vạn vật. Người có tâm từ hòa đồng với tất cả, tự mình
chan hòa trong toàn thể, xem vạn vật và mình là một.
Một loại tâm như vậy quả thật là
cao thượng! Nhưng cũng rất khó thực hành. Ðúng như vậy. Vì lẽ ấy chúng ta còn
là phàm nhân. Chúng ta còn phân biệt đây là "Ta", kia là cha, là mẹ,
là vợ, là chồng, là con, là cháu "Của Ta", cái này là tiền của, sự
nghiệp, cái kia là danh vọng, quyền thế "Của Ta" v.v... Chư vị A La
Hán đã tận diệt ngã chấp. Tâm từ của các Ngài như vừng thái dương, bao trùm vạn
vật mà không có sự phân biệt nào. Ðức Phật là kết tinh, là hiện thân của tâm từ
vô lượng vô biên ở mức độ cùng tột. Ðó là những gương lành trong sạch để ta noi
theo, là lý tưởng thanh cao tuyệt đỉnh để ta hướng tâm về. Những tư tưởng nào
hướng về tâm từ vô lượng ấy là Chánh Tư Duy.
3. Tư tưởng không hung bạo:
Hung bạo là gây đau khổ cho người
khác mà không xót thương, không động lòng trước tình trạng đau khổ của người
khác. Nghịch nghĩa của hung bạo là bi mẫn, động lực làm cho ta rung động trước
cảnh khổ của người khác, là cái gì thoa dịu lòng khổ đau của người, là thiện ý
muốn giúp người thoát một cảnh khổ. Tâm không hung bạo là tâm bi.
Cũng như tâm tư, tâm bi phải vô
lượng, vô biên, không bị hạn dịnh trong một gia dình, một xóm, một làng, một
quốc gia, một tôn giáo, một giai cấp hay một loại chúng sanh nào.
Ðối tượng của tâm từ là toàn thể
chúng sanh - chúng sanh khổ và chúng sanh không khổ - mà không có sự phân biệt.
Ðối tượng của tâm bi là những chúng sanh xấu số, đang ở trong cảnh khổ, và tác
dụng của tâm bi là gia công giúp người đang khổ thoát ra khỏi hoàn cảnh bất
hạnh ấy. Người có tâm bi chuyên lo nâng đỡ kẻ thấp hèn, nghèo đói, cô thân,
tuyệt vọng, chăm nom săn sóc người bệnh hoạn tật nguyền, khuyên nhủ dỗ dành
người thất bại, dẫn dắt và cứu độ người tội lỗi và soi sáng người tối tăm lầm
đường lạc nẻo.
Thấy người hoạn nạn rồi âu sầu ủ
dột, phiền muộn khóc than. Ðó không phải là tâm bi mà giống như người "thù
mang lốt bạn" của tâm bi. Tâm bi trong Phật giáo không phải là những giọt
nước mắt chảy suông trước sự đau khổ của kẻ khác. Ðặc tính của tâm bi là ý muốn
giúp người khác thoát khỏi một cảnh khổ chớ không phải là phiền não âu sầu với
họ. Thọ ưu (domanassa, cảm giác buồn khổ) thuộc về tâm sân (dosa, hay patigha),
một trong ba căn bất thiện.
Tâm bi giống như tình thâm của bà
từ mẫu, thương xót đứa con đang lâm bệnh. Bao nhiêu tâm trí, lời nói và hành
động đều tập trung lại để chuyên chú tìm phương thế làm cho con đỡ đau khổ.
Lòng người có tâm bi thật là mềm
dịu, hơn cả những tai hoa mềm mại, không bao giờ hành hung hay làm điều chi
phương hại đến kẻ khác. Chính nhờ tâm bi mà con người có thể phục vụ một cách
hoàn toàn vị tha. Người có tâm bi không sống cho mình mà sống cho kẻ khác và
luôn luôn tìm cơ hội giúp người, nhưng không bao giờ mong đợi được đền ơn đáp
nghĩa. Có những tư tưởng hướng về tâm bi là Chánh Tư Duy.
Bản chất của chúng sanh là tham
lam, sân hận và hung bạo - hai hình thức khác của ái dục - vì khư khư cố chấp
đây là "Ta", cái này là "Của Ta".
Chúng ta vui thích những gì vừa ý
và ghét bỏ những gì phật lòng cái "Ta". Vui thích thì đâm ra luyến
ái, đeo niú, cố bám chắc, tức tham. Phật lòng thì bất mãn, xua đuổi, giận dữ,
oán ghét, tức sân, lắm khi đưa đến hung bạo tàn ác.
Khi Chánh Kiến và Chánh Tư Duy dần
dần phát triển, hiểu biết và suy tư chân chánh hỗ trợ lẫn nhau đưa đến nhận
thức ngày càng rõ rệt bàn chất rỗng không của cái gọi là "Ta" . Chừng
ấy tâm luyến ái, sân hận và hung bạo dần dần suy giảm, nhường chỗ cho tâm buông bỏ, tâm từ và tâm bi.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét