1. Bố Thí ( Dana)
Bố Thí, hay lòng quảng đại, là Ba La Mật đầu tiên mà trong khi thực hiện hành giả thành tựu hai nghiệp thiện là: tiêu trừ những tư tưởng ích kỷ, xấu xa, và phát triển những tư tưởng vị tha, trong sạch. Bố thí là một niềm hân hoan, một phước lành cho cả người tặng, lẫn cho thọ lãnh.
Bồ
Tát không thắc mắc tìm hiểu người mà mình muốn cho sự vật, hoặc ban một đặc ân
nào, có ở trong tình trạng thiếu thốn món đó không. Ngài cho ra mà không chạy
theo vật mình cho. Ngài bố thí vì lòng quảng đại mà cũng để diệt lần mọi luyến
ái còn tiềm tàng trong tâm. Niềm vui khi phụng sự của kẻ khác tự nhiên đến. Làm
dịu bớt nỗi đau khổ của chúng sanh là một hạnh phúc khác do sự bố thí đem lại.
Tình
thương của một vị Bồ Tát thật là bao la. Lòng từ bi của Ngài rải ra cho tất cả
muôn loài. Nhưng khi bố thí, Ngài không nhắm mắt cho càn. Lòng quảng đại không
làm cho sự bố thí trở nên mù quáng. Nếu có một người nghiền rượu đến nhờ sự
giúp đỡ của Ngài và Ngài biết chắc chắn người này sẽ lãnh món quà để dùng trong
việc sai quấy, vị Bồ Tát sẽ không ngần ngại từ chối. Đặt lòng quảng đại trong
một hành động sai lầm không phải là Ba La Mật (Parami).
Khi
giúp đỡ một người vì lý do chính đáng, Bồ Tát không hề lộ vẻ quan trọng hoặc tỏ
ý tự tôn tự đại; trái lại, thấy đó là một cơ hội quý báu để làm bổn phận mình nên
sẵn sàng và vui vẻ phục vụ kẻ khác một cách khiêm tốn. Ngài không bao giờ thấy
mình cao hơn ai vì lẽ người đó nhờ mình. Khi giúp đỡ, Ngài không thấy đó là thi
ân, cũng không coi người mình giúp là đã thọ ân mình. Bồ Tát làm việc gì chỉ vì
đó là điều phải, không tìm danh vọng, không mong đền đáp.
Bồ
Tát không bỏ lỡ một dịp may nào để phục vụ kẻ khác, nhưng không hạ mình cầu xin
ân huệ. Túc Sanh Truyện Brahma Jataka (số 323) thuật rằng có một vị Bồ Tát sống
đời tu sĩ trong vườn ngự uyển. Thường ngày vua đến viếng và cung cấp mọi vật
dụng, nhưng dầu sao nhà vua không thể thấy hết mọi nhu cầu của Ngài. Đôi dép và
cây dù của Bồ Tát rách hư đã mười hai năm trường mà vua không hay. Ngài không
hề hở môi. Ngày kia vua hay được. Trước cử chỉ tuy khiêm tốn nhưng lạ lùng như
vậy, vua hỏi Ngài tại sao? Ngài trả lời:
"Tâu bệ hạ, kẻ cầu khẩn mà không được sẽ buồn rầu, kẻ được người khác nhờ đến mà không thể giúp, càng buồn rầu hơn nữa".
"Tâu bệ hạ, kẻ cầu khẩn mà không được sẽ buồn rầu, kẻ được người khác nhờ đến mà không thể giúp, càng buồn rầu hơn nữa".
Bồ
Tát cho ra không xiết kể, không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay tôn giáo,
nhưng không bao giờ cầu mong người khác trả lại. Một đặc điểm của các Ngài là
tri túc hoàn toàn. Thi hào Edward Dyer ca ngợi đức tánh ấy trong mấy dòng thơ:
"Vài người có thật nhiều mà vẫn còn ham muốn,
Tôi có ít nhưng cảm thấy đủ
Chính họ "nghèo", mặc dầu tiền rừng, bạc bể.
Và chính tôi "giàu", tuy túi rỗng không.
Túc
Sanh Truyện Kanha Jataka (số 440) có ghi chép rằng một hôm vua trời Sakka nghe
danh vị một Bồ Tát nọ là một gương mẫu, có nhiều đức độ, vua trời lấy làm cảm
phục, kính cẩn đến bạch xin Ngài cho biết có cần món chi để vua cúng dường. Bồ
Tát vui vẻ xin được thành tựu bốn điều ước nguyện:
1. Ước nguyện tôi không sân hận, không phiền hà hay có ác
ý với người láng giềng;
2. Ước nguyện tôi không ham muốn vật sở hữu của người
láng giềng
3. Ước nguyện tôi không luyến ái riêng người nào;
4. Ước nguyện tôi có tâm xả.
Nghe
vậy , tuy hết sức cảm phục, vua trời Sakka lấy làm thất vọng xin ngài chọn thêm
một vật gì khác để vua cúng dường. Vị Bồ Tát trả lời:
"Bất
luận nơi nào mà rừng sâu tôi sống,nơi nào mà tôi ở một mình, xin cho tôi được
khoẻ mạnh. Bởi vì bệnh hoạn sẽ làm xáo trộn cuộc sống yên tĩnh và làm trở ngại
công phu hành thiền của tôi."
Vua
trời Sakka nghĩ thầm: "Thật là tiếng đồn chẳng sai. Quả thật Bồ Tát Kanha
là bậc trí thức, thay vì ước mong thỏa mãn nhu cầu vật chất, Ngài chỉ chọn
những điều cần thiết cho đời sống đạo hạnh."
Lần
thứ ba Vua trời Sakka lại xin Bồ Tát chọn một món gì khác để cúng dường. Bồ Tát
trả lời: "Tâu Hoàng Thượng, tôi có thêm một nguyện vọng nữa. Bất luận ở
đâu, không một chúng sanh nào làm tổn thương thân thể tôi, không một chúng sanh
nào làm hại đến tâm trí tôi, đó là lời nguyện của tôi."
Lòng
quảng đại của một vị Bồ Tát thật không cùng. Ngài cho ra tất cả: của cải, tài
sản, sự nghiệp. Ngài có thể cho cả ngai vàng, cả quốc vương, một cánh tay, một
cái chân, cho đến vợ, đến con. Đến mạng sống, Ngài cũng không ngần ngại cống
hiến để tạo hạnh phúc cho nhân loại.
Túc
Sanh Truyện Vessantara Jataka (số 547) có thuật rằng hoàng tử Vessantara, lúc
còn tám tuổi, có lần thành thật nghĩ rằng:
"Nếu
một ngày kia có người cần đến trái tim của ta, ta sẽ tự tay mổ ngực, moi tim
cho ra.
Nếu
có người cần lấy mắt, ta sẽ tự móc mắt ra biếu. Nếu có người cần đến thịt ta,
ta sẽ tự tay cắt một miếng thịt để tặng."
Túc
Sanh Truyện Vyaghri Jataka cũng thán phục thuật lại một câu chuyện một hoàng tử
sẵn sàng và vui vẻ hy sinh mạng sống để đem lại hạnh phúc cho kẻ khác.
Trong
Jatakamala, câu truyện được thuật lại rằng:
"Ngày
kia, một vị Bồ Tát đi ngang qua một khu rừng nọ cùng với người đệ tử. Ngài nhìn
thấy một con cọp mẹ cùng với ba con cọp con nằm ngất ngư gần chết đói. Động
lòng bi mẫn, người bảo người đệ tử đi tìm thức ăn cho cọp. Nhưng chính là cái
cớ để được ở lại một mình với cọp vì ngài nghĩ rằng:
'Tại
sao ta phải đi tìm một thân sống khác, khi có sẵn món ăn ta đây để làm món ăn
cho cọp. Tìm thức ăn nơi khác là một việc cầu may, hơn nữa, ta có thể bỏ lỡ một
cơ hội tốt đẹp để làm bổn phận.
"Chính
cái thân ô trược nầy là nguồn gốc của bao nhiêu phiền não, bao nhiêu bất hạnh.
Nếu ta cứ khư khư bám chặt lấy nó và nếu không biết dùng nó để phụng sự kẻ khác
thì thật là không sáng suốt chút nào. Trong đời chỉ có hai nguyên do làm cho
con người hững hờ trước sự đau khổ của kẻ khác. Đó là lòng luyến ái, cột trói
chúng sanh vào những lạc thú, cố bám lấy sự vui sướng cá nhân, sợ nó mất đi, là
một nguyên do làm cho ta lãnh đạm trước sự đau khổ của kẻ khác. Thiếu lòng từ
thiện, thiếu ý chí giúp đời là nguyên do khác. Nhưng ta không thể an vui khi kẻ
khác đau khổ. Ngày nào chưa giúp được kẻ khổ, ngày ấy ta không thể an hưởng
hạnh phúc. Như vậy làm sao ta có thể thản nhiên trước cảnh tượng hấp hối vì đói
khát của cọp mẹ và bầy cọp con nầy.
"Nếu
ta nhảy xuống vực sâu để làm mồi cho cọp thì ít ra ta cũng dùng cái thân khốn
khổ nầy vào một việc hữu ích. Ta sẽ nuôi sống cọp mẹ, tránh cho nó khỏi phải
làm điều ác là ăn thịt con nó, và cũng tránh cho bầy con nhỏ vô tội kia khỏi
phải chết vì nanh vuốt của mẹ chúng.
"Lại nữa, hành động như vậy ta còn nêu một gương sáng cho ai còn ham muốn những gì mà cho là tốt đẹp, trên đời nầy. Ta hy sinh thân nầy để cứu bốn mạng sống, để an ủi và khuyến khích những ai bé nhỏ yếu đuối, làm vui lòng những ai thấu triệt ý nghĩa sâu xa của lòng từ thiện và tạo nên lý tưởng cho những ai muốn sống cuộc đời đạo hạnh. Vậy, đây là cơ hội hy hữu để bước lần đến mức độ giác ngộ hoàn toàn."
"Lại nữa, hành động như vậy ta còn nêu một gương sáng cho ai còn ham muốn những gì mà cho là tốt đẹp, trên đời nầy. Ta hy sinh thân nầy để cứu bốn mạng sống, để an ủi và khuyến khích những ai bé nhỏ yếu đuối, làm vui lòng những ai thấu triệt ý nghĩa sâu xa của lòng từ thiện và tạo nên lý tưởng cho những ai muốn sống cuộc đời đạo hạnh. Vậy, đây là cơ hội hy hữu để bước lần đến mức độ giác ngộ hoàn toàn."
Nghĩ
như vậy Bồ Tát liền gieo mình xuống vực thẳm, hy sinh mạng sống để ban sự lành
cho bốn con cọp sắp chết.
Theo
Nevari (Nepala Basha), câu chuyện đáng thương tâm và đầy ý nghĩa thú vị trên
được thuật lại như sau:
"Vào
thuở xa xưa kia có một ông vua tên Maharattha có thế lực oai hùng và tâm đạo
nhiệt thành. Đức vua có ba hoàng tử là Maha Prashada, Maha Deva và Maha Sattva,
cả ba đều hiền lành và dễ dạy.
Một
buổi sáng tươi đẹp nọ, đức vua cùng ba hoàng tử dạo chơi trong rừng. Mãi lo
nhìn xem phong cảnh và mê mẩn với hoa thơm cỏ lạ, ba vị hoàng tử càng đi sâu
vào rừng.
Quan hầu cận thấy vắng bóng ba vị hoàng tử bèn tâu lại với đức vua. Đức vua liền truyền lệnh cho các quan đi tìm, rồi ngự giá hồi cung.
Quan hầu cận thấy vắng bóng ba vị hoàng tử bèn tâu lại với đức vua. Đức vua liền truyền lệnh cho các quan đi tìm, rồi ngự giá hồi cung.
Ba
vị hoàng tử đi mãi đến một ngọn núi kia. Đứng trên tảng đá nhìn xuống, người
anh cả trông thấy một con cọp cái và năm cọp con ở dưới vục sâu. Cả mẹ lẫn con
chỉ còn da bọc xương, đang nằm thoi thóp. Đã nhiều ngày từ khi đẻ con, cọp mẹ
không tìm được thức ăn. Bầy cọp con bu theo mẹ để nút sửa, nhưng vú mẹ cạn khô
không còn gì để bú. Cọp mẹ có vẻ đói lắm, rỏ ràng đang sắp sửa ăn thịt con.
Người
anh cả nhận thấy tình trạng bi đát ấy, chỉ cho các em và nói rằng: "Các em
hãy nhìn cảnh tượng đáng thương tâm kia, các em có thấy cọp mẹ không? Vì quá
sức đói nên nó đang sắp sửa ăn thịt con cho đỡ dạ. Thật là một trạng thái vô
cùng khốn khổ."
Maha Sattva hỏi anh:"Cọp thường ăn vật chi?" Anh trả lời rằng thịt sống là món ăn của loài cọp và sư tử.
Maha Sattva hỏi anh:"Cọp thường ăn vật chi?" Anh trả lời rằng thịt sống là món ăn của loài cọp và sư tử.
Maha
Deva lưu ý anh rằng cọp mẹ có vẻ đã đuối sức, chắc chắn nó nhịn đói đã lâu lắm
rồi. Phải chi có ai dám hy sinh thân mình cho nó thì quý biết mấy. Nhưng ai đâu
lại vui lòng làm cái việc cao cả ấy.
Maha
Prashada nói:"Chắc chắn là không có ai làm được việc ấy."
Với một giọng cảm động, Maha Sattva tiếp:"Em còn nhỏ, chắc chắn là chưa đủ trí khôn, nên em nghĩ rằng những người thiểu trí như chúng ta có lẽ không thể hy sinh mạng sống mình để cứu người. Nhưng cũng có hạng người từ bi hoàn toàn sống cho kẻ khác. Những người như thế có thể sẽ vui lòng hiến thân mình để cứu sáu sanh mạng nầy."
Ba anh em bàn luận như vậy rồi bỏ đi nơi khác.
Với một giọng cảm động, Maha Sattva tiếp:"Em còn nhỏ, chắc chắn là chưa đủ trí khôn, nên em nghĩ rằng những người thiểu trí như chúng ta có lẽ không thể hy sinh mạng sống mình để cứu người. Nhưng cũng có hạng người từ bi hoàn toàn sống cho kẻ khác. Những người như thế có thể sẽ vui lòng hiến thân mình để cứu sáu sanh mạng nầy."
Ba anh em bàn luận như vậy rồi bỏ đi nơi khác.
Maha
Sattva nghĩ thầm: "Ta phải hy sinh tánh mạng để cứu sống bầy cọp nầy. Tấm
thân tứ đại mà ta mang đây chỉ là một đống ô trược đã gây cho ta bao nhiêu
phiền não, bao nhiêu bệnh hoạn, tật nguyền. Tuy rằng hiện nay ta có thể ướp
hoa, thoa dầu cho nó xinh đẹp, thơm tho, nhưng rồi một ngày kia nó sẽ tanh hôi
và tan rã."
Chàng
bèn bảo hai anh đi trước để mình chậm rãi ngoạn vật ngắm cảnh. Chờ hai anh đi
xa, chàng hối hả trở lại chỗ cọp nằm, cởi quần áo treo lên nhánh cây và nghĩ
rằng: "Ta phải tích cực hành động để tạo an lành cho kẻ khác. Phải rải tâm
từ đến tất cả chúng sanh. Phục vụ những ai cần đến ta là nhiệm vụ trọng đại. Ta
hãy hy sinh tấm thân ô trược nầy để cứu mạng sống cho cọp mẹ và năm con. Do
hành động xứng đáng nầy, mong rằng ta sẽ bước lần đến mức giác ngộ hoàn toàn,
hầu cứu độ chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi đau khổ. Ước mong tất cả chúng sanh
đều an vụi hạnh phúc!"
Hướng
tâm về tinh thần phục vụ vị tha, hoàng tử Maha Sattva nhẹ nhàng gieo mình xuống
hố, gần nơi bầy cọp nằm. Nhưng hoàng tử không chết, chỉ bị thương nặng. Cọp
kia, dầu bẩm tánh rất hung dữ, cũng động lòng thương hại vị Bồ Tát, không nỡ
chạm đến chân Ngài. Bồ Tát nghĩ rằng cọp đã quá yếu đuối nên không đủ sức vật
mình để ăn. Ngài lần bò đi tìm một khí cụ để tự sát. May thay, gần nơi cọp nằm
có một khúc tre bể. Ngài nhặt lấy tre rồi tự cứa cổ đến chết. Ngài té ngã nằm
trên vũng máu. Cọp vừa đói vừa khát, thấy vậy đi lần đến, liếm vũng máu và xé
thây Bồ Tát ra, ăn ngon lành. Phút trốc chỉ còn lại một đống xương tàn.
Chuyện
thêm rằng lúc Bồ Tát tự sát để hiến thân cho cọp, trời đất chuyển động, nước
biển nổi sóng to, ánh mặt trời bỗng tối sầm lại, cảnh vật trở nên lờ mờ, tất cả
chư Thiên đồng thanh reo to: "Lành thay! Lành thay!", và từ trên
không trung, bông Parijata rơi xuống như mưa.
Trước cảnh tượng phi thường của trời đất, hai người anh đoán chắc rằng em mình đã hiến thân làm mồi cho cọp rồi.
Trước cảnh tượng phi thường của trời đất, hai người anh đoán chắc rằng em mình đã hiến thân làm mồi cho cọp rồi.
Hai
anh liền đi lần trở lại tìm em và lấy làm kinh hoàng trước cảnh tượng hãi hùng.
Đâu là hình bóng của người em yêu mến. Chỉ còn đống xương trắng điểm máu hồng,
bên cạnh bầy cọp no bụng. Gần tảng đá, trên cành cây, quần áo của Maha Sattva
còn phất phơ trước gió.
Hai vị hoàng tử đau lòng xót dạ, khóc than thê thảm và buồn bã trở về tâu lại với vua cha.
Chính ngay lúc Bồ Tát liều thân cứu cọp, hoàng hậu ở cung nội đang ngủ. Bà nằm mộng thấy một cái răng của mình bỗng nhiên rụng xuống và nghe nhức nhối đau xót tựa hồ như có ai cầm dao thẻo thịt ra từng miếng. Nhìn ra ngoài cửa, hoàng hậu lại thấy từ trên không, một con ó đáp xuống, xớt một trong ba con bồ câu xinh đẹp đang đậu trên nóc nhà và tha đi mất.
Hai vị hoàng tử đau lòng xót dạ, khóc than thê thảm và buồn bã trở về tâu lại với vua cha.
Chính ngay lúc Bồ Tát liều thân cứu cọp, hoàng hậu ở cung nội đang ngủ. Bà nằm mộng thấy một cái răng của mình bỗng nhiên rụng xuống và nghe nhức nhối đau xót tựa hồ như có ai cầm dao thẻo thịt ra từng miếng. Nhìn ra ngoài cửa, hoàng hậu lại thấy từ trên không, một con ó đáp xuống, xớt một trong ba con bồ câu xinh đẹp đang đậu trên nóc nhà và tha đi mất.
Hoàng
hậu lấy làm kinh sợ, giật mình tỉnh dậy, nhớ đến ba con còn lạc bước trong
rừng. Bà lật đật chạy tìm vua để thuật lại điềm mộng.
Vừa
lúc ấy tin dữ cũng được đưa đến. Câu chuyện thê thảm được thuật lại. Tất cả đều
cảm động và khóc than không xiết kể.
Đức
vua an ủi hoàng hậu rồi cởi voi đi rước hai vị hoàng tử đau khổ còn chưa ra
khỏi rừng. Gặp cha, hai hoàng tử nghẹn ngào không nói được một lời. Sau cùng,
cố sức nén lòng, hai vị lần lượt thuật lại cho vua cha và mọi người nghe cái
chết dũng cảm của người em vô cùng cao quý.
Vua
hạ lệnh sắm sửa ngựa voi để cùng hoàng hậu và bá quan đến nơi lịch sử. Vừa thấy
xương tàn còn dính đầy máu đỏ, vua và hoàng hậu ngã ra bất tỉnh. Ngự y hối hả
đem thuốc cứu cấp. Một hồi lâu vua và hoàng hậu dần dần tỉnh dậy. Vua truyền
gom góp tóc, xương và quần áo để lại một nơi, rồi đến trước đó đứng chiêm
ngưỡng người con yêu dấu. Tất cả quần thần cũng đến tỏ lòng sùng kính người anh
hùng cao quý.
Vua
hạ lệnh xây dựng tại chổ một bảo tháp khảm vàng để thờ vị Bồ Tát đã hiến thân
cứu cọp. Vua và hoàng hậu ra về, lòng như dao cắt.
Về
sau, bảo tháp thờ xá lợi của Bồ Tát Maha Sattva được gọi là "Om Namo
Buddha".
Sách Túc Sanh Truyện thuật lại câu chuyện có thêm rằng hiện nay bảo tháp ấy có tên là "Namura" (tiếng gọi tắt chữ Om Namo Buddha, có nghĩa tôn kính Đức Phật).
Hai câu chuyện thuật lại có khác nhau nhưng dầu vị Bồ Tát đã hiến thân cứu cọp là nhà tu sĩ hay hoàng tử, thì đó chỉ là hình thức bề ngoài. Điểm quan trọng chính là gương hy sinh cao cả và hoàn toàn vị tha chứa đựng bên trong.
Sách Túc Sanh Truyện thuật lại câu chuyện có thêm rằng hiện nay bảo tháp ấy có tên là "Namura" (tiếng gọi tắt chữ Om Namo Buddha, có nghĩa tôn kính Đức Phật).
Hai câu chuyện thuật lại có khác nhau nhưng dầu vị Bồ Tát đã hiến thân cứu cọp là nhà tu sĩ hay hoàng tử, thì đó chỉ là hình thức bề ngoài. Điểm quan trọng chính là gương hy sinh cao cả và hoàn toàn vị tha chứa đựng bên trong.
Theo
thường lệ, khi sách Jataka (Túc Sanh Truyện) chép lại một sự tích nào đều có
nêu ra cho biết nhân cơ hội nào Đức Phật nhắc lại chuyện ấy. Tiếng Phạn gọi cơ
hội ấy là Nidana (nguyên do dẫn cớ tích), thì hai câu chuyện kể trên đều có
Nidana.
Những nhân vật trong câu chuyện không được xác nhận ở đoạn cuối cùng như trong các bài Jataka khác.
Những nhân vật trong câu chuyện không được xác nhận ở đoạn cuối cùng như trong các bài Jataka khác.
Sách
Nevari Jakata thật ra có vẻ đầy đủ hơn bản Sanskrit "Jatakamala"
nhưng căn nguyên của kinh Nevara không được chắc chắn.
Về
tư cách một vị Bồ Tát hành Bố Thí Ba La Mật, có đoạn kinh"Carija
Pitaka" giải rằng:
Mỗi khi Bồ Tát tặng vật thực cho ai, Ngài ước mong người ấy được sống lâu, có sắc đẹp, yên vui, khỏe mạnh, có trí tuệ và đắc Quả cao thượng nhất là Niết Bàn. Đối với người khát nước, Ngài ban cho thức uống với ước nguyện rằng thức uống nầy không những giải cho người ấy cái khát của cơ thể vật chất mà còn làm suy giảm lòng khát khao dục vọng. Ban quần áo, Ngài cho với ước nguyện người ấy sẽ biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi. Khi giúp đỡ phương tiện đi đứng Ngài chú nguyện người thọ nhân sẽ trau giồi các năng lực tinh thần. Ban cho nhang trầm, Ngài ngưỡng mong người thọ lãnh sẽ hưởng hương thơm của Giới Đức (Sila). Ban dầu và hoa, Ngài chú nguyện người nhận sẽ hưởng danh thơm của người sống đời đạo hạnh như Đức Phật. Giúp cho ai chỗ ngồi, Ngài nguyện cho người ấy có được nền tảng của sự giác ngộ. Giúp chỗ ở, Ngài mong người ấy sẽ là nơi nương tựa cho cả thế gian. Giúp ánh sáng, Ngài chú nguyện người nhận có được năm loại nhãn quan là mắt thịt, mắt trí tuệ, Thiên Nhãn, mắt của một vị Phật, và tri kiến thông suốt chân tướng vạn pháp.
Bố thí "Sắc", Bồ Tát chú nguyện người nhận lãnh được có hào quang như Đức Phật ; "Thinh", được lời nói tao nhã dịu dàng như chư vị Phạm Thiên; "Xúc", có được cơ thề thanh lịch và tinh hảo như Đức Phật; và khi giúp đỡ thuốc men cho ai, Bồ Tát cầu chúc cho người ấy được sống mãi mãi, tức chứng ngộ Đạo Quả Niết Bàn.
Mỗi khi Bồ Tát tặng vật thực cho ai, Ngài ước mong người ấy được sống lâu, có sắc đẹp, yên vui, khỏe mạnh, có trí tuệ và đắc Quả cao thượng nhất là Niết Bàn. Đối với người khát nước, Ngài ban cho thức uống với ước nguyện rằng thức uống nầy không những giải cho người ấy cái khát của cơ thể vật chất mà còn làm suy giảm lòng khát khao dục vọng. Ban quần áo, Ngài cho với ước nguyện người ấy sẽ biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi. Khi giúp đỡ phương tiện đi đứng Ngài chú nguyện người thọ nhân sẽ trau giồi các năng lực tinh thần. Ban cho nhang trầm, Ngài ngưỡng mong người thọ lãnh sẽ hưởng hương thơm của Giới Đức (Sila). Ban dầu và hoa, Ngài chú nguyện người nhận sẽ hưởng danh thơm của người sống đời đạo hạnh như Đức Phật. Giúp cho ai chỗ ngồi, Ngài nguyện cho người ấy có được nền tảng của sự giác ngộ. Giúp chỗ ở, Ngài mong người ấy sẽ là nơi nương tựa cho cả thế gian. Giúp ánh sáng, Ngài chú nguyện người nhận có được năm loại nhãn quan là mắt thịt, mắt trí tuệ, Thiên Nhãn, mắt của một vị Phật, và tri kiến thông suốt chân tướng vạn pháp.
Bố thí "Sắc", Bồ Tát chú nguyện người nhận lãnh được có hào quang như Đức Phật ; "Thinh", được lời nói tao nhã dịu dàng như chư vị Phạm Thiên; "Xúc", có được cơ thề thanh lịch và tinh hảo như Đức Phật; và khi giúp đỡ thuốc men cho ai, Bồ Tát cầu chúc cho người ấy được sống mãi mãi, tức chứng ngộ Đạo Quả Niết Bàn.
Bồ
Tát phá gông cùm, giải phóng cho những người nô lệ với hy vọng cũng giải phóng
con người, cùng một thế ấy, ra khỏi vòng xiềng xích của bao nhiêu dục vọng.
Bồ
Tát ly da cắt ái, từ bỏ những đứa con yêu quý của mình để nối rộng tình phụ tử
đậm đà ấy đến tất cả chúng sanh. Ngài từ bỏ vợ để làm chủ thế gian, bỏ ngai
vàng để thừa hưởng vương quốc của sự chánh trực, công minh, và đạo đức.
Đoạn
kinh trên không những chỉ cho ta thấy thế nào là thái độ vị tha của vị Bồ Tát
mà còn nói lên sự nỗ lực không ngừng và bất vụ lợi của các Ngài để phục vụ nhân
loại. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của Bồ Tát là trở thành Phật, và Ngài không
bao giờ lãng quên mục tiêu cứu cánh ấy.
Tiếp theo: TRÌ GIỚI (Sila)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét