NGÔI NHÀ CHÁNH NIỆM
Thiền sư Sayadaw U Jotika
Tôi muốn tặng các bạn một món quà bằng những lời nói của mình. Giá trị của
những lời nói tốt đẹp là không thể đo lường, còn giá trị của món quà vật chất
thì luôn có giới hạn. Nếu bạn tặng một món quà vật chất cho bạn bè mình thì họ
có thể sử dụng nó cho đến khi rách nát hoặc hư hỏng, điều chắc chắn sẽ xảy ra
trong một ngày nào đó. Nhưng lợi ích của lời nói thì không cùng.
Một lời nói, một tư tưởng nhỏ bé nhất cũng sẽ được một
người biết trân trọng những lời hay ý đẹp ghi nhớ và suy ngẫm nhiều lần, và rồi
quan điểm và tư tưởng của người ấy sẽ dần dần thay đổi; khi anh trưởng thành
lên thì cuộc đời anh cũng sẽ thay đổi ngày một tốt đẹp hơn. Nếu một tư tưởng
thiết thực và lợi ích được áp dụng và thực hành trong thực tế của cuộc sống, nó
sẽ mang lại những lợi ích vô cùng to lớn.
Cá nhân tôi cũng đúc rút được rất nhiều tư tưởng và
kiến thức từ trong sách vở và từ những suy tư về chúng, nghiền ngẫm nhiều lần
và cố gắng đem ra áp dụng, nhờ vậy tôi đã đạt được những tuệ giác sâu sắc ở
nhiều tầng mức khác nhau. Đó là lý do tại sao tôi thường có sự thoả mãn sâu sắc
khi đọc qua, thậm chí chỉ là một hoặc hai dòng chữ thực sự có ý nghĩa.
Tôi cảm thấy rất hoan hỷ và thoả mãn với những tư
tưởng cao đẹp, như thể chúng là những viên đá quý Rubi nhỏ bé. Vì vậy tôi muốn
dùng những lời hay ý đẹp để làm món quà tri thức mến tặng tất cả các bạn.
Bài pháp này được dựa trên sườn của một bài thơ rất
hay về Phật Pháp. Sách tôi thường chọn đọc nói chung là những sách về triết
học, những chủ đề mang tính tư duy hoặc những sách có liên quan đến Phật Pháp.
Dựa trên những gì đã học hỏi, tiếp thu được từ sách vở, tôi tư duy về chúng,
đánh giá lại các sự kiện đã được viết đi viết lại nhiều lần trong sách, so sánh
với những kiến thức của bản thân và rồi đem ra kiểm nghiệm trong thực tế cuộc
sống. Tôi muốn khuyến khích các bạn cũng nên làm như vậy. Tất cả những gì tôi
có thể làm được là nói cho các bạn biết - còn việc có thực hiện trên thực tế
hay không là tuỳ thuộc vào chính bạn.
Bởi vì bài pháp này dưới thể một bài thơ nên ngôn từ
rất ngắn gọn, hàm súc nhưng ý nghĩa của nó thì vô cùng rộng lớn và sâu sắc.
Những bài kệ (gathas) được Đức Phật cảm hứng nói lên, về cơ bản là những
bài thơ; một số câu kệ trong ngôn ngữ Pāli mang ý nghĩa hết sức sâu sắc. Chẳng
hạn "appamādo amatam padam" có nghĩa là: không phóng dật
(nghĩa đen là không xao lãng, buông lung-appamādo) là bất tử (amatam)
- nói cách khác là nhân đưa đến Niết Bàn (padam). Những từ rất ngắn
ngủi, nhưng bạn có thể mở rộng ý nghĩa của chúng ra xa đến mức mà sự thông minh
và trí tuệ của bạn có thể làm được. Tôi đã cố gắng để hiểu được ý nghĩa của
những từ này trong biết bao nhiêu năm trời. "pamādo maccuno padam"
nghĩa là: phóng dật (pamādo) sẽ dẫn đến (padam) cái chết (maccuno).
Những từ này mang một ý nghĩa thật sâu sắc .
Appamādo amatam padam
Pamādo maccuno padam.
Ngôn từ của bài kệ Pāli này có hạn, nhưng ý nghĩa của
nó thì vô cùng sâu rộng. Nghĩa của nó là: không phóng dật dẫn đến bờ bất tử;
phóng dật là đường chết (vòng sanh tử luân hồi). Tôi đã phải mất bao
nhiêu năm trời để cố gắng thấu suốt ý nghĩa của nó và hiểu được những từ này.
Appamatta na miyanti
Ye pammatta yatha mata
Nghĩa của hai câu này là: "Người không
phóng dật sẽ không bao giờ chết. Kẻ thất niệm, phóng dật thì sống cũng như đã
chết rồi".
Nếu sống thật chánh niệm[1] trong
một thời gian dài, khi đó bạn sẽ nhận thấy rằng sống phóng dật, không có chánh
niệm tự biết mình quả là một cuộc sống vô vị và khô cứng. Những người không có
chánh niệm không thể cảm nhận được sự sống động của cuộc đời một cách thực sự.
Khi bạn đã thực sự sống miên mật cùng chánh niệm, càng chánh niệm bạn sẽ càng
hiểu được ý nghĩa của những lời tôi nói.
Trong đạo Phật, nếu chỉ dừng lại ở văn tuệ (sutamayā
paññā - kiến thức sách vở) và tư tuệ (cintamayā paññā - hiểu biết do tư
duy, suy ngẫm) thì chưa đủ. Trước kia, tôi cứ nghĩ rằng mình đã hiểu rất
nhiều về Phật Pháp nhờ kiến thức tổng quát và tư duy tri thức của mình, nhưng
khi bắt đầu hành thiền và nhìn nhận mọi việc từ kinh nghiệm của bản thân thì
tôi mới nhận ra rằng khoảng cách giữa văn tuệ, tư tuệ với tu tuệ (bhavanāmaya
paññā - trí tuệ phát sinh từ kinh nghiệm trực tiếp) xa vời đến mức nào. Bạn
không thể hiểu được ý nghĩa của danh (nama) và sắc (rūpa) qua
sách vở. Chỉ khi bạn đã gia công tinh tấn trong thiền tập thâm sâu, khi chánh
niệm (sati) và định tâm (samādhi-sự ổn định, vững vàng của nội
tâm) của bạn đã chín muồi, bạn mới nhận ra được bản chất của danh và sắc: đó
chính là Tuệ Phân biệt Danh-Sắc (namarūpaparicheda ñāṇa). Rồi khi niệm
và định mạnh mẽ hơn, bạn sẽ nhận ra được quan hệ nhân quả giữa danh và sắc: Đó
là Tuệ Phân biện Nhân duyên (paccayapariggaha ñāṇa). Tuệ giác này còn vi
tế và sâu sắc hơn. Nếu tiếp tục phát triển tuệ giác này, bạn sẽ đạt được Tuệ
Thẩm Sát (sammasana ñāṇa) - hiểu biết sâu sắc về ba đặc tướng vô thường,
khổ, vô ngã (anicca, dukkha, anatta). Đến trình độ này, sự ghi nhận
thuần túy và qua trình quán chiếu bằng tư duy, suy nghiệm có thể vẫn còn đan
xen, trộn lẫn với nhau. Khi tuệ quán (vipassana ñāṇa - tuệ
minh sát) đã chín muồi thì không còn tư duy nữa; chỉ có kinh nghiệm trực
tiếp về sự sanh diệt. Khi đó bạn sẽ nhận ra rằng vô thường là cái không thể
diễn tả cho bất cứ người nào hiểu được. "Mọi thứ đều là vô thường, tất cả
đều sanh và diệt ngay tức thì", cái câu mọi người vẫn hay nói đó, chẳng
qua chỉ là những hiểu biết về mặt tri thức của họ mà thôi. Còn bản chất của
thực tại chân đế (paramattha)[2] luôn
nằm ngoài phạm vi của ngôn từ.
Khi bạn chắp hai bàn tay lại, chúng đụng nhau và bạn
cảm nhận được cảm giác nóng, mềm và sự chuyển động. Không có cách nào để diễn
tả cảm giác này bằng ngôn từ. Bạn chỉ có thể biết cảm giác khi thực sự xúc chạm
và cảm nhận nó. Và trong sự xúc chạm này, tôi muốn các bạn nhận ra rằng chỉ có
các cảm giác nóng, mềm, sự chuyển động - chỉ những tính chất này thôi - không
phải bàn tay, không có "tôi", không hình thể, không dáng điệu nào cả.
Bạn phải thực sự cố gắng nhiều. Điều đó nằm ngoài ngôn từ.
Thậm chí ngay cả tầng tuệ giác cơ bản nhất, đơn giản
nhất cũng không thể diễn tả được bằng ngôn từ. Để diễn tả nó, bạn phải giải
thích bằng nhiều cách và sử dụng rất nhiều từ ngữ. Để hiểu được, người nghe
cũng phải giải đoán những từ ngữ đó đúng trong ngữ cảnh của nó. Đôi khi bạn
phải dùng đến cả các ví dụ và ẩn dụ. Để diễn tả một điều nằm ngoài phạm vi ngôn
từ phải cần rất nhiều sự giải thích bằng từ ngữ, bằng các lối nói ẩn dụ và ví
dụ.
Ở đây, tác giả của bài kệ cũng dùng những ẩn dụ để
diễn đạt những điều ông muốn nói. Tôi muốn các bạn hãy cố gắng hiểu những gì mà
tác giả muốn nói ở đây. Hãy cố gắng ghi nhớ trong tâm và suy nghĩ, tư duy về nó
theo cách riêng của bạn.
Tôi sẽ giảng chi tiết khi đi qua từng đoạn cụ thể của
bài kệ, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi sẽ chuyển tải được toàn bộ ý nghĩa
mà tác giả muốn chuyển đến các bạn. Thực ra, cuối cùng tôi cũng không phải là
người cái gì cũng biết. Tôi muốn các bạn hãy mở rộng nó ra và sử dụng cách tư
duy logic của chính bạn.
1)
Thân tôi chẳng có mẹ cha,
Đất trời tôi nhận mẹ cha sinh
thành.
Đây là những lời nói của một con người. Con người là
một phần của thực tại chế định (samuti sacca) hay còn gọi là khái niệm
tục đế (paññati). Người đó có cha mẹ. Tôi chưa bao giờ gặp người nào
không có cha mẹ cả, nhưng đây là con người ở trong thơ ca. Ông có cha mẹ nhưng
ông không nói đến họ. Ông muốn nói rằng ông xem trời và đất như cha mẹ mình.
Đây là một lối nói ẩn dụ.
Nói ngắn gọn thì trời và đất chính là tự nhiên.
Nếu suy nghĩ về nó một cách sâu sắc, bạn sẽ hiểu rằng
chúng ta đã từng lăn trôi qua không biết bao nhiêu kiếp sống và đã từng có vô
số cha mẹ. Chúng ta mang một món nợ sinh thành quá lớn với cha mẹ chúng ta
trong kiếp sống này và cả với cha mẹ trong vô số kiếp quá khứ nữa, nhưng có ai
trong đó chúng ta có thể nói là cha mẹ của mình trong cả vòng luân hồi dài đằng
đẵng này không? Điều đó là không thể có. Chúng ta luôn luôn thay đổi mẹ cha và
đôi khi lại có cha mẹ là những người đã từng là cha mẹ của mình trong những
kiếp quá khứ.
Ở thành phố Yangon này có một người đàn ông, sau khi
chết, ông ta tái sanh trở lại làm con của con trai mình, lúc đó con dâu đã trở
thành mẹ và con trai trở thành cha của ông ta. Hãy xem, cuộc đời và vòng luân
hồi này có những điều không thể tin được như vậy đấy, thật là kỳ lạ và thâm
sâu, vi diệu. Nếu chúng ta hiểu được những điều này, nó sẽ khiến chúng ta đối
xử với nhau thân ái và tốt đẹp hơn nhiều. Vòng sanh tử luân hồi này dài vô tận,
dài đến mức Đức Phật nói rằng, không có một chúng sanh nào chưa từng là bà con,
họ hàng thân thích của chúng ta cả.
Nếu có một cái nhìn sâu sắc về vòng sanh tử luân hồi,
hẳn là chúng ta sẽ đối xử với nhau một cách trân trọng và nhẹ nhàng hơn nhiều;
chúng ta sẽ thấu hiểu và tha thứ cho nhau nhiều hơn, kiên nhẫn với nhau hơn và
biết làm việc vì lợi ích của người khác hơn. Nếu không có một thái độ như vậy,
con người chúng ta sẽ trở nên rất ngã mạn. "Chúng nó",
"tôi", "cao", "thấp" và rất nhiều cách phân biệt
đối xử khác. Hãy cố gắng hiểu rõ thế nào là cuộc đời và vòng sinh tử luân hồi,
để chúng ta có thể nuôi dưỡng một tấm lòng nhân ái, trân trọng lẫn nhau, không
khinh rẻ, coi thường một ai cả.
Một người bạn của tôi, kiếp trước vốn là một phụ nữ,
bị chết trong một ca đẻ khó. Trong kiếp này, người đó tái sanh lại làm một
người đàn ông. Bạn thấy đấy, bạn cũng có thể là một người phụ nữ bây giờ và là
một người đàn ông ở kiếp sau v.v.. và sẽ còn mãi mãi tiếp tục như thế nữa.
Có một bà cụ già chết đi và tái sanh làm đứa cháu
trong chính gia đình ấy. Khi thằng bé đã đủ lớn khôn để hiểu biết mọi việc, nó
bắt đầu cư xử, nói năng y hệt như bà cụ già ở kiếp trước của nó. Nó nhận ra
ngôi chùa và những đồ vật nó đã từng cúng dường trong kiếp trước khi được nhìn
thấy lại những đồ vật ấy, và khi xem ảnh bà cố của nó, thì nó nói rằng: đây
chính là tôi! Trong kiếp trước, khi là một bà cụ già, nó đã rất muốn được trở
thành đàn ông, đó là lý do tại sao kiếp này nó được sanh làm đàn ông, dĩ nhiên
là như thế!
Bạn có nghĩ là những sự kiện này thật thú vị và thật
đáng sợ không? Điều đó có làm thay đổi cách nhìn của bạn về mọi thứ hay không?
Vì vậy, hãy đối xử với mọi người trong sự hiểu biết về sanh tử luân hồi.
Trong kiếp sống này, hình dáng bên ngoài và cơ thể của
bạn được cha mẹ ban cho, song để được sinh ra trong gia đình cặp cha mẹ này thì
điều đó lại được quyết định bởi nghiệp của bạn (kamma). Nghiệp tạo cho
bạn tâm tái sinh (patisandhi citta - tâm tục sinh hay kiết sanh thức) -
cha mẹ không thể cho bạn được điều đó. Tất nhiên, bạn cũng phải có mối liên hệ
nào đó với cha mẹ mình trong một kiếp nào đó trong quá khứ rồi.
Nghiệp có nghĩa là nghiệp thiện (kusala kamma) và
nghiệp bất thiện (akusala kamma), chứ không phải có một đấng toàn năng
nào mà bạn không hề biết đến sẽ thao túng, giật dây bạn theo ý muốn của ông ta.
Đó chỉ là những nghiệp thân (kayakamma), nghiệp khẩu (vacikamma)
và nghiệp ý (manokamma) mà bạn đã gieo tạo trước đây mà thôi.
Mỗi một tâm xảy ra, dù đó là tâm tốt hay tâm xấu, cũng
đều để lại một tính chất nào đó. Mặc dù cái tâm thể hiện tính chất đó, tự thân
nó đã diệt mất, đã tan hoại hoặc biến mất- nhưng tính chất của nó thì vẫn còn
để lại đằng sau, theo cách này hay cách khác, nó sẽ còn hiện hữu ở trong những
tâm sanh khởi kế sau đó. Điều này thật là sâu sắc và khó hiểu. Đức Phật nói
rằng "kammavipako acinteyo" - "nghiệp quả là điều
bất khả tư nghì (không thể nghĩ bàn)". Điều này nằm
ngoài khả năng hiểu biết của tư tưởng - nó đòi hỏi phải có một loại trí tuệ cao
hơn mới có thể nắm bắt và hiểu được nó.
Mọi hành động về thân, khẩu, ý của chúng ta (kayakamma,
vacikamma, manokamma) đều mang tính chất thiện hoặc bất thiện. Nghiệp
thiện (kusalakamma) hay nghiệp bất thiện (akusalakamma) là
những tính chất của tự nhiên; chúng không chỉ đơn thuần là những khái niệm hay
ý tưởng. Tôi muốn các bạn hãy hiểu điều này một cách thật sâu sắc; không phải
vì chúng ta nghĩ điều này là thiện mà nó sẽ trở thành thiện, cũng không phải
chúng ta cho điều kia là ác mà nó sẽ thành ác được đâu. Chúng chỉ là các tính
chất của tự nhiên. Chẳng phải vì bạn quyết định rằng ớt phải có vị ngọt mà làm
cho ớt trở thành ngọt được. Cái gì tự nhiên nó đã là cay thì luôn luôn nó vẫn
là cay.
Như vậy, hiểu theo cách đó, thiện là bản chất hay tính
chất của các trạng thái tâm cao thượng-những đặc tính mang lại sự hạnh phúc, là
những trạng thái tâm trong sáng và thanh tịnh; thậm chí khi vừa làm xong một
việc thiện, chúng ta có thể cảm nhận được niềm sung sướng, hạnh phúc và bình an
ngay lập tức. Bất thiện là những điều hạ liệt, phù phiếm, không trong sạch và
luôn thiêu đốt, đau khổ - chúng mang lại rắc rối và là nguồn gốc của mọi khổ
đau.
Nếu bạn nhìn vào tâm mình và cảm thấy bên trong mình
luôn trong sáng, thanh tịnh và bình an, là khi đó thiện pháp đang có mặt. Nếu
tâm bạn cảm thấy buồn khổ, thiêu đốt nóng nảy, hung bạo, khô cứng, hạ liệt, thì
khi đó không cần phải hỏi cũng biết trong đó đang chứa đầy những điều bất
thiện.
Tất nhiên, chúng ta khó có thể nhận diện được ngay tức
khắc những thiện pháp hoặc bất thiện pháp vi tế đang sanh khởi trong tâm. Tuy
nhiên, nếu Niệm (sati) và Định (samādhi) mạnh, bạn sẽ thấy được
những tâm thiện và tâm bất thiện vi tế này.
Một số người hỏi: "Bạch ngài, ngài bảo chúng con
phải chánh niệm, nhưng làm thế nào để biến chánh niệm này trở thành thiện
pháp?". Họ cảm thấy khó có thể hiểu được ngay vấn đề.
Khi tâm ghi nhận-hay biết trực tiếp về một đối tượng
nào đó trong hiện tại, hành giả sẽ không còn suy nghĩ gì nữa. Nếu bạn thực sự
chỉ hay biết một cách trực tiếp, sẽ không còn tư tưởng nào sanh khởi trong tâm
nữa. Nếu tâm chánh niệm mạnh, tâm tham (lobha) loại thô sẽ không
còn hiện hữu trong tâm được nữa. Nếu tâm chánh niệm thực sự mạnh, thì sẽ không
còn một tâm tham nào có thể tồn tại trong tâm, khi đó cũng không còn sân (dosa-giận,
bất mãn, khó chịu), không ngã mạn (mana-so sánh mình với người, sinh ra
tự ti mặc cảm hoặc kiêu ngạo), ghen tỵ (issa), hiềm hận (macchariya),
trạo cử (uddhacca-tâm suy nghĩ động loạn, không kiểm soát được), hối quá
(kukkucca-sự ăn năn, hối hận, nuối tiếc), hôn trầm thuỵ miên (thinamiddha-dã
dượi, lờ đờ, buồn ngủ) và nghi ngờ (vicikiccha) gì nữa.
Hãy thử tưởng tượng xem, một nội tâm hoàn toàn không
phiền não như thế sẽ tuyệt vời đến mức nào? Nó thực sự trong sạch, bình an và
rất sáng suốt - người đã thực hành thiền lâu sẽ biết rất rõ điều này.
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn
sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sáng và an lạc. Bạn cảm thấy
nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
Hãy cố gắng niệm tưởng đến Đức Phật, mỗi khi cảm thấy
tâm mình đã thoát khỏi các phiền não, khi đó bạn sẽ thoáng hiểu được thế nào là
Đức Phật. Bạn không thể nói là mình đã biết, đã hiểu về Đức Phật chỉ vì mình đã
đọc về Ngài trong sách vở. Chỉ khi bạn niệm tưởng đến trạng thái tâm của Đức
Phật, trong lúc chính bạn đang chứng nghiệm được một nội tâm sạch bóng phiền
não, khi đó bạn mới thoáng hiểu được Ngài và bạn sẽ thấy chính mình đang kính
ngưỡng Ngài biết bao. Chỉ khi nào bạn đã tự mình trực tiếp chứng nghiệm được
một nội tâm không phiền não, lúc đó bạn mới thực sự hiểu được sự cao thượng của
một nội tâm như vậy. Đó là lý do tại sao chánh niệm là một thiện pháp, một tâm
đại thiện.
Có rất nhiều điều chúng ta không thể biết, không thể
hiểu được về Đức Phật, nhưng chỉ cần biết một điều này thôi, bạn sẽ thấy được
Ngài. Có những lúc chính tôi đã kinh nghiệm được điều ấy. Khi nội tâm tôi cảm
thấy thực sự thuần khiết, thanh tịnh và trong sáng, tôi nghĩ, ngay bản thân
mình còn có thể cảm nhận được sự an lạc và trong sáng đến thế, thì cũng có thể
đoán định được một phần sự trong sáng, tĩnh lặng, thanh tịnh và thuần khiết mà
Đức Phật cảm nhận sẽ như thế nào.
Tâm tái sanh (patisandhicitta-tâm tục sinh hay kiết
sanh thức) bị tác động bởi nghiệp. Nghiệp là quy luật tự nhiên
– chứ không chỉ mỗi là khái niệm hay ý tưởng. Một tế bào từ người cha và một tế
bào từ người mẹ kết hợp lại để trở thành một tế bào hoàn chỉnh khác. Tế bào này
lại tự nhân lên nhiều lần, và nó phải cần chất dinh dưỡng (ahara). Không
có dinh dưỡng thì nó không thể tự nhân ra được. Dinh dưỡng cũng là một thành
phần của tự nhiên. Sau đó, nó cần phải có nhiệt độ thích hợp ở trong tử cung
của người mẹ, không được quá nóng cũng không quá lạnh.
Nghiệp (kamma), tâm (citta), nhiệt độ (utu)
và dinh dưỡng (ahara) là nhân duyên; chúng thuộc về tự nhiên. Không có
ai sáng tạo ra theo ý muốn của họ được cả. Nếu bạn hỏi có phải cha mẹ tạo ra
không, thì câu trả lời vẫn là không. Tuy nhiên bạn có thể nói rằng tất cả đều
được kết nối và liên quan với nhau, mặc dù không có một nguyên nhân nào là duy
nhất. Nó xảy ra bởi vì tất cả các điều kiện, nhân duyên thích hợp đã hội đủ.
Tất cả nhân duyên đều là những định luật của tự nhiên. Vì thế, nếu bạn suy nghĩ
thật cẩn thận và sâu sắc vần kệ này:
"Thân tôi chẳng có mẹ cha,
đất trời tôi nhận mẹ cha sinh thành"
Nó có ý nghĩa thực sự thâm sâu và vi diệu.
2) Tôi đây chẳng có cửa nhà,
Chỉ có chánh niệm mái nhà che thân.
Sinh ra làm một con người, ai chẳng cần có một chỗ trú
ngụ, có một mái nhà, có tường bao và nền nhà. Dù xấu hay tốt, ít nhất bạn cũng
cần phải có một mái nhà đỡ nắng che mưa, có tường chắn gió, có nơi để nằm.
Nhưng tác giả không nói đến một nơi chốn vật chất, lầu son gác tía mà con người
lao tâm khổ tứ xây dựng nên để làm chỗ trú ngụ cho cái thân vật chất này. Tác
giả muốn nói đến một điều thật sự sâu sắc, cái ông muốn nói đến là một tâm sở -
ông lấy chánh niệm, lấy sự tỉnh thức biết mình làm ngôi nhà của mình. Điều này
thật sâu sắc - người nào đã thực hành và làm cho chánh niệm của mình trở nên
liên tục sẽ hiểu được sự thâm sâu, vi diệu và tác động lớn lao của những lời
nói này.
Mang cái thân người này, nếu không có một mái nhà che
thân, làm sao chúng ta có thể sống cho qua ngày đoạn tháng? Nay đây, mai đó
chẳng có chỗ nào ổn định, không có nơi nào để gọi là ngôi nhà của mình. Không
có nơi chốn nào là chắc chắn - đang sống yên ổn ở một nơi này, có chuyện gì xảy
đến lại bươn bả đi tìm nơi khác. Chẳng được xã hội trân trọng và dĩ nhiên là
nhiều nguy hiểm, từ thời tiết, từ bệnh tật, trộm cắp và nhiều thứ nữa. Con
người vô gia cư cả đời cứ chạy vòng quanh chỗ này chỗ kia, lủi thủi, cô đơn và
vô giá trị.
Một cái tâm không chánh niệm cũng như vậy. Ở chỗ
này một chút, chỗ kia một tẹo, không bao giờ đàng hoàng, quang minh chính đại.
Một cái tâm như vậy sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm từ các đối tượng bất thiện,
tham, sân, ngã mạn..v.v.. Nếu tâm bạn được sống trong ngôi nhà chánh niệm, nó
sẽ được an toàn, được bảo vệ chu đáo và tránh khỏi mọi hiểm nguy. Nó sẽ có được
sự ổn định và phẩm giá con người.
Chánh niệm là ngôi nhà của tâm.
Người sống không chánh niệm có một nội tâm vô gia cư,
vật vờ, khắc khoải. Cái tâm đó đi chỗ này, đến chỗ nọ, buông lung, tán loạn
không chủ đích - một cái tâm thực sự tháo động và bất an.
Khi bạn vừa mở mắt thức dậy và có chánh niệm, hãy thực
hành niệm hơi thở (anapana) ngay lập tức. Bạn hít thở thật sâu để
cơ thể nhận được nhiều ôxy hơn. Não của chúng ta cần rất nhiều ôxy, vì vậy khi
bạn vừa tỉnh giấc, còn cảm thấy mơ màng buồn ngủ, hãy hít thở vài hơi thật sâu,
nó sẽ làm cho não bạn trở nên tươi mới và sáng suốt. Hơn nữa, việc bạn chú tâm
vào hơi thở sẽ kéo chánh niệm quay lại và nó sẽ làm tâm bạn thêm tỉnh thức. Làm
như vậy, bạn thu được cả hai lợi ích cùng một lúc.
Hành thiền một chút trong tư thế nằm rồi ngồi dậy và
tiếp tục ngồi thiền ngay tại chỗ, ở trên giường. Bạn có thể vệ sinh thân thể
sau. Ngay khi vừa tỉnh dậy là ngay khi đó bạn hãy chánh niệm, ghi nhận, tự biết
mình.
Khi đã duy trì được đà chánh niệm liên tục và thành
công trong một thời gian nào đó, thì một nội tâm trong sáng, thuần tịnh, an lạc
và tĩnh lặng sẽ bắt đầu đến với bạn.
Bắt đầu một ngày mới bằng một tâm thiện, một tâm
thiền, đó quả là một điều phúc lạc thực sự, quả là chân hạnh phúc cho đời. Bạn
chưa rửa mặt ư, cũng chẳng sao cả. Cái tâm còn quan trọng hơn việc ấy nhiều.
Sau khi đã ngồi thiền tại chỗ như vậy một lúc rồi (nếu
bạn ngủ trên một chiếc giường), hãy nhẹ nhàng nhấc chân ra khỏi giường và tiếp
tục chánh niệm ghi nhận các cảm giác xúc chạm của bàn chân với sàn nhà. Rồi giữ
chánh niệm khi bạn đi rửa mặt, biết rõ các cử động của mình, các cảm giác xúc
chạm, hay biết cả sự chánh niệm của mình và tất cả. Hay biết mọi thứ khi bạn
đang làm - bạn cũng không cần phải dùng đến ngôn từ để niệm thầm hay ghi nhớ
các hành động đó. Mọi sự xúc chạm - không cần thiết phải niệm câu gì hay tụng
đọc cái gì cả - chỉ cần hay biết nó. Cái "hay biết và ghi nhận mọi
sự xúc chạm" này chính là cái tôi muốn các bạn thực hành.
Ngay cả khi sự thực hành của bạn đã tiến bộ, Niệm và
Định của bạn đã có thể bắt được những đề mục vi tế hơn, bạn cũng không nên bỏ
niệm hơi thở và chánh niệm đối với các xúc chạm như là một nền tảng thực hành
căn bản của mình.
Sau đó, bạn có thể tụng kinh một chút, rải tâm từ một
chút rồi ngồi xuống hành thiền. Sau thời tọa thiền, bạn phải đi ăn sáng, làm
việc nhà và hãy cố gắng giữ chánh niệm càng nhiều càng tốt khi làm những công
việc ấy. Đừng lo khi chánh niệm của bạn còn hời hợt; ngay cả chỉ một chút xíu
chánh niệm thôi cũng có lợi ích rất lớn cho bạn rồi.
Nếu bạn cố gắng thực hành như thế, dù chỉ để duy trì
được một chút chánh niệm trong suốt cả ngày, bạn sẽ dần dần nhận thấy sức mạnh
của tâm mình ngày càng tăng trưởng theo thời gian. Khi năng lực của tâm đã vững
vàng, bạn sẽ thấy rằng khi bạn buông lỏng, thư giãn thoải mái và ngồi xuống
hành thiền, chỉ trong vòng 5 phút tâm bạn đã được định tĩnh và tập trung - định
tâm đến thật dễ dàng.
Sau bữa ăn sáng và các công việc khác sẽ là những việc
bạn cần làm - đến cơ quan hay làm công chuyện, thực hiện những trách nhiệm, bổn
phận khác của mình. Nếu bạn tự lái xe, hãy chánh niệm biết rõ khi mở cửa xe,
khi ngồi xuống, đóng cửa, tra chìa khoá điện, mở máy, hay biết tiếng động cơ xe
khi khởi động, hay biết động cơ đang rung lên nhè nhẹ khi bạn lái xe đi. Hãy cố
gắng hay biết và ghi nhận tất cả những điều này khi bạn đang làm - dù chỉ là
biết một chút chút thôi cũng được. Nó không khó lắm đâu, bạn cứ thử xem. Trên
đường đi, hãy chánh niệm hay biết tất cả những gì xảy ra. Lái xe một cách thật
kiên nhẫn. Khi bạn đợi đèn xanh đèn đỏ, hãy giữ một cái tâm thật mát mẻ và thư
giãn, thoải mái.
Con người hiện đại ngày nay quá bận rộn, đến nỗi ngay
khoảnh khắc vừa mở mắt thức dậy, họ đã bị cuốn vào guồng xáo động ngay lập tức.
Họ không có được một giây phút bình an - tâm họ lúc nào cũng đầy căng thẳng.
Tình trạng căng thẳng này rất đáng báo động. Điều cần làm là phải luôn luôn tự
ý thức, hay biết sự căng thẳng này và thư giãn, buông xả nó ra. Có những sự
căng thẳng có thể làm cho bạn trở nên kiệt sức.
Đến nơi làm việc một cách chánh niệm, bất cứ việc gì
bạn phải làm trong công việc cũng làm trong chánh niệm; thậm chí chỉ trong vòng
5 giây - cũng cứ hãy chánh niệm. Mọi người thường nghĩ rằng chỉ một chút xíu
như vậy chẳng thể mang lại sự khác biệt nào, chẳng có lợi ích gì và họ ngừng
lại không làm nữa. Điều đó là không đúng. Bạn phải thử nghiệm nó. Sau một thời
gian dài bạn sẽ bắt đầu nhận thấy rằng - thậm chí chỉ một khoảnh khắc chánh
niệm ngắn ngủi thôi cũng đủ đem lại một sự bình an nào đó cho tâm hồn, đem lại
một sự cân bằng và hòa hợp cho tâm mình.
Trong khi làm việc, nếu có điều gì đó không được trôi
chảy và bạn bực mình, cáu giận, hãy chánh niệm ghi nhận ngay điều đó. Nếu đã có
được chút ít chánh niệm, thì ngay lúc bạn trở nên giận dữ, bạn sẽ hay biết được
nó liền. Bạn sẽ không để nó đến mức phải bùng nổ.
Bản chất của sự giận dữ là khi nó xảy ra lần đầu tiên
(bạn tức giận lần đầu), nó chưa bùng nổ ra ngay- bạn vẫn còn có thể kiềm chế
được. Nếu lại có một điều gì đó không vừa ý xảy đến, nỗi giận tăng thêm một ít
- song bạn vẫn còn kiểm soát được. Một điều gì đó lại xảy ra và nỗi giận lại
tăng thêm chút nữa và bạn lại phải cố kiềm chế nó. Nhưng rồi cuối cùng một sự
việc dường như rất nhỏ nhặt và không quan trọng nào đó sẽ đột ngột gây nên một
sự bùng nổ ghê gớm, không thể kiểm soát được, bạn không thể chịu đựng thêm một
chút nào nữa.
Như vậy khi có sự tích tụ những điều bất mãn, không
vừa ý này (được gọi là sân tàn dư), thì mỗi khi có một việc gì đó xảy ra, cái
kho sân hận tiềm tàng còn ẩn giấu này sẽ lại được nhân lên. Nếu bạn ý thức được
quá trình tích tụ những điều bất mãn (domanassa - ưu não) và luôn
chánh niệm quan sát hay ý thức được nó, nó sẽ bị hóa giải. Bản chất của sân hận
là: nếu bạn hiểu rõ nguyên nhân của nó một cách thật cặn kẽ, khi đó nó không
thể mặc sức hoành hoành, phô trương sức mạnh của mình được nữa.
Nếu có thể xử lý được những việc nho nhỏ hàng ngày hay
làm bạn khó chịu theo cách ấy, thì hầu hết những cáu kỉnh, khó chịu đó sẽ không
bao giờ lên tới mức của một cơn giận bộc phát. Bạn sẽ thấy nhẹ nhõm, trút bỏ
được rất nhiều chỉ từ mỗi việc là mình không còn bị bùng nổ trong cơn giận nữa.
Những người xung quanh cũng không còn phải chịu đựng những hành động giận dữ
của bạn. Và khi làm việc, bạn sẽ làm với một nội tâm bình an, với chánh niệm và
trí tuệ, khi đó những phẩm chất tốt đẹp nhất của bạn sẽ bắt đầu được khai mở,
thăng hoa và mọi việc đều hoàn thành tốt đẹp hơn xưa.
Có thể nói rằng người nào cố gắng chánh niệm được suốt
cả ngày là người đang sống trong chính ngôi nhà của họ, đó là ngôi nhà chánh
niệm. Đó là lý do tại sao bạn chỉ có thể hiểu được ý nghĩa của câu kệ "Tôi
lấy chánh niệm làm ngôi nhà của mình", khi chính bạn phải tự mình thực
hành. Hiểu biết tâm mình sẽ mang lại cho bạn muôn vàn lợi ích.
3) Với
tôi sống, chết nào đâu,
Chỉ có sóng thở nhịp cầu tử
sinh.
Cơ thể này của chúng ta chỉ được sanh ra một lần trên
đời, lớn lên, già đi rồi chết. Thật ra, đây mới chỉ là một sự hiểu biết
thể lý, vật chất ở mức độ rất thô thiển mà thôi. Tác giả của bài kệ này không
nói về cuộc sống và cái chết của con người ở mức độ thô thiển và nông cạn như
thế. Ông muốn nói đến bản chất của cuộc sống và cái chết vi tế ở trong tâm (là
các hiện tượng tâm lý).
Là một hành giả thực hành niệm hơi thở (anapana),
tác giả muốn ám chỉ đến hơi thở của mình với lối ẩn dụ về những nhịp sóng triều
lên xuống. Khi bạn hít vào giống như nhịp sóng lên cao, một hơi thở ra như ngọn
triều xuống thấp. Có được một hình ảnh như thế và chú tâm vào nó, bạn có thể
quán chiếu về cuộc sống và cái chết, bạn có thể thấy được, có thể hiểu được
sinh tử, tử sinh của một kiếp người.
Khi được Đức Phật giảng dạy về pháp môn niệm chết,
nhiều vị Tỳ Khưu (vị sư) đã theo lời Ngài thực hành quán niệm về cái chết. Khi
chư vị đến gặp Đức Phật, Ngài hỏi: "Này các con, các con có quán niệm về
sự chết không?". Chư Tỳ Khưu thưa: "Bạch Thế Tôn, chúng con có quán
niệm". "Thế các con quán niệm về sự chết như thế nào?"
Một vị đáp: "Con thường quán niệm thế này - nếu
con chỉ còn sống thêm được một ngày hôm nay nữa thôi, thì thế cũng đã là tốt
lắm rồi. Con sẽ dành trọn ngày cuối cùng của đời mình để hành thiền".
Một vị kia nói: "Con thường tự nhắc nhở mình
rằng, nếu chỉ còn được sống thêm thời gian vừa đủ ăn thêm một miếng nữa thôi,
thì thế cũng đã là tốt lắm rồi. Nói cách khác, con không mong mình sẽ còn được
sống lâu hơn thời gian để ăn xong một miếng cơm nữa".
Một Tỳ Khưu khác thưa: "Nếu con được sống thêm
chỉ một hơi thở nữa thôi, thì thế cũng đã là tốt lắm rồi. Con sẽ dành chút thời
gian còn lại đó để hành thiền". Vị Tỳ Khưu này không mong là sẽ còn sống
thêm được lâu hơn một hơi thở nữa - như thế đủ để hiểu rằng cái chết nó ở gần
chúng ta đến như thế nào.
Người Miến Điện thường hay nói là: "Trước khi kịp
co tay vào và trước khi kịp duỗi tay ra". Đây là một sự nhắc nhở rằng cái
chết thực sự ở rất gần bên cạnh chúng ta. Đối với một số người, họ thấy được
cái chết ở ngay trước mắt, không có chút thời gian nào để mà hoang phí nữa. Khi
bạn thực sự biết rằng mình có thể chết bất cứ lúc nào, khi đó bạn sẽ không còn
phí phạm thời gian nữa.
Tôi đã 3 lần ở kề bên cạnh cái chết và một lần tôi đã
chắc chắn là mình thực sự sắp chết đến nơi rồi. Tôi rất mệt mỏi và kiệt sức.
Khi bạn đã tới chỗ không thể chịu đựng thêm được bất cứ điều gì hơn nữa, dù nhẹ
đến đâu, thì đó là lúc bạn biết rằng mình đang chuẩn bị chết. Lúc đó tôi đã
phải cố gắng kiểm soát bản thân mình bằng chánh niệm, và tôi tin rằng chính nhờ
sự chế ngự bằng chánh niệm ấy mà tôi đã không chết. Nếu tôi không thể giữ được
bình tĩnh và giữ cho tâm mình yên tĩnh, mát mẻ, thì tôi nghĩ mình đã tới lúc
không thể chịu đựng thêm được nữa và chỉ còn chết mà thôi.
Thân và tâm này luôn vận hành cùng với nhau. Nếu tâm
không còn chịu đựng được thêm chút nào nữa, nó sẽ làm một cái gì đó có tác dụng
như một câu nói: "thôi, thế là đủ rồi" đối với thân, và nó sẽ thực sự
làm như vậy.
Khi tôi gần chết và nghĩ lại những việc mình đã làm
trong quá khứ, tất cả quay lại với tôi thật rõ ràng, tôi có thể nhìn thấy được
chúng. Chỉ một việc nhỏ nhất cũng đủ khiến cho chúng ta chỉ vào mặt nhau, thù
hằn, đấu đá nhau đến mức không thèm nói chuyện, không thèm nhìn mặt nhau nữa và
mang lại cho nhau bao nhiêu là đớn đau, khổ não. Chúng ta đã phung phí quá
nhiều thời gian quý giá, bỏ ra bao nhiêu năm trời chỉ để làm cho người khác đánh
giá cao về mình, dưới cái vỏ danh vọng, tiếng tăm và uy tín. Chúng ta chỉ làm
những việc mà nhờ đó mọi người sẽ đánh giá cao về mình, để tô son đánh bóng cho
bản thân mình - để ăn ngon, mặc đẹp và sống sung sướng, thoải mái. Có
được 3 nhu cầu cơ bản đó cũng là điều quan trọng, nhưng chúng có phải là những
điều quan trọng nhất để làm trong cuộc đời chúng ta không?
Tôi chỉ nghĩ đến những điều này khi đã ở kề bên cạnh
cái chết, "Thực sự mình đã sống cả cuộc đời chỉ cho người khác mà
thôi". Mọi người nghĩ rằng họ sống cuộc đời của chính họ - nhưng đó chỉ là
một suy nghĩ đầy bóng dáng của "cái tôi". Nhưng dù bạn có nghĩ cho
mình nhiều đến đâu chăng nữa, thì con người cũng không bao giờ thực sự sống
cuộc đời họ cho chính bản thân họ. Họ sống cuộc đời họ cho người khác. Cái tôi
muốn nói ở đây là chúng ta chỉ cố sống sao cho người khác đánh giá cao về mình,
nghĩ tốt về mình, ngưỡng mộ, ca ngợi mình, để cho người khác được hài lòng,
thỏa mãn. Chỉ khi nghĩ đến những điều này ở bên ngưỡng cửa cái chết, tôi mới
thấy được nó rõ như ban ngày và không thể phủ nhận được.
Nếu bạn sống với chánh niệm và trí tuệ, thì ngay trước
lúc chết, bạn sẽ có thể hiểu được cuộc đời một cách sâu sắc hơn nhiều. Bạn có
thể nói rằng, cái nhìn của bạn lúc đó sẽ hoàn toàn thay đổi và điều này sẽ dễ
xảy ra hơn khi bạn đã có một thói quen hành thiền lâu năm.
Khi kiểm điểm lại toàn bộ cuộc đời mình, bạn có thể
thấy được việc nào là việc quan trọng nhất để làm. Nó rất rõ ràng. Tôi thấy một
cách rất rõ ràng: những gì tôi đã làm bởi vì nghĩ chúng là quan trọng, thực ra
chỉ là những điều tôi làm để cho người khác đánh giá cao về tôi, nghĩ tốt về
tôi mà thôi. Còn thực sự việc gì là quan trọng nhất để làm? Câu trả lời là
"phát triển trí tuệ".
Chúng ta sinh ra là để học hỏi
và phát triển trí tuệ. Và để làm được điều đó,
bạn cần phải có tấm lòng rộng mở
và một nội tâm cao thượng.
Tấm lòng rộng mở và một nội tâm cao thượng luôn
đi cùng với nhau. Nói một cách hình tượng thì những nhu cầu căn bản của cuộc
sống (cái ăn, cái mặc và nơi ở) cũng giống như nền móng của một ngôi nhà, trong
khi tấm lòng hào hiệp, quảng đại của trí tuệ và sự cao thượng của tâm hồn giống
như hai mái nhà.
Tôi đã phải bỏ ra bao nhiêu thời gian để theo đuổi con
đường phát triển trí tuệ này?
Tôi đã đến trường, đến lớp, đã học tới đại học - song
những kiến thức tôi học được ở đó chỉ có thể giúp tôi làm việc để kiếm sống mà
thôi. Đấy vẫn chưa phải là sự học hỏi sâu sắc nhất. Hiểu biết về khoa học, các
loại bằng cấp chuyên môn, kế toán và kinh tế, đó không phải là trí tuệ, nhưng
con người lại không biết dành thời gian để học những kiến thức thực sự liên
quan đến chính cuộc sống của mình.
Nếu bạn cứ chỉ sống như thế này mãi thôi, đến lúc chết
bạn sẽ nhận thấy rằng mình đã sống một cuộc đời thật phù phiếm, hời hợt và rồi
sẽ thấy hối tiếc làm sao. Có thể, lúc đó bạn sẽ tự nói với chính mình rằng:
"Nếu tôi không chết, chắc chắn tôi sẽ chỉ làm những việc có giá trị nhất
cho bản thân mình".
Khi còn trẻ, tôi đã chép lại một câu rất hay ở trong
một cuốn sách mình đã đọc - "Hãy đọc cuốn sách hay nhất đầu tiên, kẻo bạn
sẽ không còn cơ hội để đọc nó nữa". Nếu suy ra từ câu nói đó, bạn sẽ hiểu
được câu nói này:
"Hãy làm việc quan trọng nhất đầu tiên,
kẻo bạn sẽ không còn cơ hội để làm nó nữa.”
Tôi nghĩ, điều này sẽ giúp bạn hiểu biết một cách sâu
sắc hơn.
Song bạn không thể lơ là, bỏ mặc tất cả mọi thứ trên
đời với lý do là để làm những việc quan trọng nhất. Là một con người, một thành
viên trong xã hội chúng ta có rất nhiều bổn phận phải làm - nào là sự sinh
nhai, làm ăn kiếm sống, nào là con cái, gia đình, nào là trách nhiệm xã hội,
chính trị, tôn giáo…vân vân. Nhưng giữa tất cả những công chuyện bộn bề đó,
chúng ta vẫn phải tìm ra thời gian dành riêng cho bản thân mình, bất cứ lúc nào
cũng được, để phát triển nhận thức về một bản chất cao thượng hơn và sâu sắc
hơn của chính mình. Không còn gì phải nghi ngờ về điều này nữa.
Nếu chúng ta làm các công việc hàng ngày của mình, dù
đó là để kiếm sống hay thực hiện các bổn phận, trách nhiệm với xã hội, với một
thái độ chân chánh, với chánh niệm và trí tuệ, thì chúng ta sẽ học hỏi được rất
nhiều, sẽ tăng trưởng kiến thức và hiểu biết của mình từ trong chính những hoàn
cảnh này. Khi đối mặt với những khó khăn, thăng trầm ở đời (8 pháp thế gian,
hay 8 ngọn gió đời - lokadhammas- là 4 cặp: được và mất, vinh và
nhục, hạnh phúc và đau khổ, được ca tụng và bị chỉ trích), chúng ta có thể học
hỏi với chánh niệm và trí tuệ, sẽ thu được rất nhiều kiến thức từ chính những
kinh nghiệm này. Trong cuộc đời có rất nhiều bài học để chúng ta học hỏi. Trong
một bài pháp trước đây, tôi đã từng nói :
"Bạn sẽ phải học các bài học trong đời.
Chúng ta đã đăng ký trọn thời gian
trong một trường học không chính thức,
được gọi là cuộc đời".
Toàn bộ cuộc đời của chúng ta là một trường học. Chúng
ta học dưới mái trường này, từ lúc mới mở mắt lọt lòng cho đến tận khi nhắm mắt
xuôi tay, từ giã cõi đời. Mọi thứ chúng ta trải nghiệm trong đời, mỗi âm thanh,
mỗi hình ảnh, dù tốt dù xấu cũng đều chỉ là những bài học, không có một ngoại
lệ nào cả. Nếu chúng ta có thể học hỏi từ nó, chúng ta sẽ trở nên ngày càng trí
tuệ hơn. Nhưng để có thể học được các bài học từ trong một hoàn cảnh nhất định
nào đó, lại cần phải có chánh niệm. Nếu chúng ta thất niệm, đãng trí và với cái
tâm chai cứng, nhẫn tâm thì sẽ không học được bài học nào cả và cũng chẳng có
chút trí tuệ nào.
Cuộc đời là một trường học.
Từ khi sinh ra đến lúc chết đi, chúng ta
đều ở trong trường học đó. Mọi thứ chúng ta
trải nghiệm trong cuộc đời này, những thứ ta
nghe, ta nhìn, dù xấu hay tốt cũng đều là các
bài học. Nếu biết cách học bài,
chúng ta sẽ có trí tuệ và hiểu biết - song để
học được những bài học này, chúng ta
cần phải có chánh niệm (sati).
Sống phóng dật, dễ duôi thì chúng ta
sẽ chẳng học được gì cả.
Học sinh đến trường, ngồi trong lớp mà mơ mộng, suy
nghĩ vẩn vơ đâu đâu thì sẽ không nghe được thầy giáo đang giảng những gì, chúng
sẽ không hiểu, không ghi nhớ được bài học - và rốt cuộc sẽ không học được bài.
Trong cuộc đời, chúng ta luôn quay cuồng bận rộn, sống buông thả, hời hợt và
đầy ảo tưởng mộng mơ, nên dù đã trải qua biết bao thăng trầm trong đời, nhưng
rốt cuộc cũng chẳng học được bài học nào. Nếu chúng ta muốn học được nhiều bài
học, thì phải thực hành cách sống chánh niệm thật nhiều - chúng ta phải luôn
luôn chánh niệm, tỉnh thức; đó là con đuờng duy nhất để học bài.
Khi nhìn một cái gì đó, bạn cảm thấy thế nào? Khi
nghe, bạn cảm nhận ra sao? Khi nghĩ một điều gì đó, bạn có cảm giác gì? Chúng
ta phải học cách thực sự chú ý vào những điều này và quan sát chúng trong chánh
niệm. Bạn có thể nghĩ một cách vô trách nhiệm rằng: "Ôi dào, tôi không thể
làm được điều đó đâu!". Hãy cố gắng thực hành mỗi lần một chút vào một lúc
nào đó thôi, làm từ từ theo thời gian. Bạn sẽ học cách làm điều đó từng chút từng
chút một. Nó dễ thôi mà!
Mỗi khi thầy trò có dịp gặp nhau, tôi thường sách tấn,
khuyến khích và nhắc nhở các đệ tử cư sỹ của mình, cuối cùng thì một số Phật tử
cũng đã thử cố gắng hành thiền. Một số đã hành thiền được 4, 5 năm; một số đã
được 10 năm. Từ việc lúc đầu chỉ nhớ chánh niệm mỗi ngày một lần vào lúc cuối
ngày (và họ không cảm thấy chán), cho đến khi họ chánh niệm được cả một phút
mỗi ngày. Rồi cố gắng được đến 5 phút chánh niệm liên tục không gián đoạn. Dần
dần họ tiến bộ đến mức có thể ngồi thiền và giữ tâm theo dõi hơi thở được 15
phút. Sau đó họ bắt đầu cố gắng giữ chánh niệm từ lúc mở mắt dậy cho đến khi
lên giường đi ngủ, luôn hay biết tất cả mọi thứ hoặc hay biết bất cứ những gì
diễn ra trong tâm, và họ đã tiến bộ đến mức có thể thấy được tâm chánh niệm của
chính mình, nghĩa là biết rõ được tâm chánh niệm của bản thân.
Đôi khi gặp nhau, tôi hỏi họ: "Có lúc nào con bị
thất niệm liền một lúc cả 5 phút hoặc trong cả 10 phút không?", và họ đáp:
"Thưa thầy, không ạ, dù rằng chánh niệm có khi hời hợt hay sít sao, cặn
kẽ, nhưng ít nhất chúng con cũng luôn có chánh niệm. Không có lúc nào là hoàn
toàn vắng mặt chánh niệm cả. Bất cứ việc gì chúng con làm, ít nhất cũng có một
chút ít chánh niệm trong đó".
Khi đã thực hành tương đối thuần thục, bạn sẽ bắt đầu
cảm thấy dường như có hai cái tâm. Đối với những người đã kinh nghiệm qua điều
này thì không có gì là lạ cả. Có một cái tâm hay biết công việc đang làm, biết
rõ bạn đang làm việc. Và có một cái tâm khác biết cái tâm đó nữa.
Khi bạn không còn biết rõ công việc mình đang làm hay
các hoạt động của tâm mình, thì đó chính là tâm si (moha). Khi có tâm si
thì không có chánh niệm. Một người đã thực hành chánh niệm miên mật sẽ cảm thấy
rất mệt mỏi và thiếu sức sống mỗi khi tâm si đến và họ không còn chánh niệm
được nữa. Bạn cảm thấy mỏi mệt, tâm xáo động, bất an; nó không còn an lạc nữa.
Ngay lập tức bạn chánh niệm, ghi nhận điều đó và bắt đầu quan sát nó. Bạn không
thể sống thất niệm trong một thời gian dài.
Ngay cả khi bạn nói chuyện cũng có một mức độ chánh
niệm nào đó. Chỉ hoàn toàn nhờ vào lực đẩy của thói quen mà chánh niệm sẽ diễn
ra một cách tự động - bạn không cần phải cố gắng chút nào. Bạn biết rõ, ý thức
được mình đang nói gì và định nói gì. Bạn cũng dành cơ hội cho người đối diện
được nói, bạn lắng nghe một cách cẩn thận và hiểu được điều họ muốn nói. Như
vậy sự giao tiếp giữa bạn với người cũng được trôi chảy tốt đẹp hơn.
Bạn phải cố gắng giữ chánh niệm, sự chú ý và quan sát
càng nhiều càng tốt, trong suốt cả ngày. Người nào thực hành như thế sẽ thấy
được mọi thứ diễn ra trong thân, tâm mình một cách hết sức rõ ràng và sâu
sắc. Khi chánh niệm thực sự mạnh, mọi suy nghĩ, tư tưởng sẽ hoàn toàn chấm dứt.
Tâm trở nên hoàn toàn yên lặng. Khi tâm tĩnh lặng, bạn sẽ hay biết được một
cách trực tiếp các cảm giác trong thân hoặc bất kỳ một đề mục nào khác - nếu
nhìn vào tâm mình, bạn sẽ có thể quán sát được tính chất tĩnh lặng và thanh
bình trong tâm.
Khi đã chánh niệm được một cách sắc bén như vậy, nếu
có điều gì thu hút sự chú ý của bạn thì bạn cũng chánh niệm về nó ngay lập tức.
Khoảnh khắc bạn hay biết nó, nó liền biến mất, và bạn cũng thấy được cả điều
này nữa. Bạn không suy nghĩ về nó. Bạn thấy nó ngay lập tức, bạn biết nó bởi vì
bạn cảm nhận được nó - bạn sẽ thấy được đặc tính tự nhiên của mọi hiện tượng,
đó là sanh và diệt ngay tức thì. Đó là chánh niệm về sự sanh diệt.
Những người đã hành thiền một cách nhiệt tâm, tinh cần
sẽ thấy sanh và diệt cũng như sinh ra và chết đi. Sự hiểu biết về sanh tử này
thật là sâu sắc, thậm thâm vi diệu.
Đối với hầu hết mọi người, họ đã sinh ra từ lâu trước
đây; lâu như số tuổi của họ, dĩ nhiên là như thế. Họ không hề biết được quãng
đời còn lại sẽ là bao lâu nữa. Có thể họ nghĩ cái chết đối với mình vẫn còn xa
lắm. Và như vậy họ sẽ chết một cách không chánh niệm. Người hành thiền thì
không như thế. Cái gì đang diễn ra bây giờ là sanh và cái gì đang diệt đi bây
giờ là chết - họ thấy ra được điều này. A, thật thâm sâu vi diệu biết bao. Đó
là lý do tại sao, càng có trí tuệ thì bạn sẽ càng cảm nhận sâu sắc ý nghĩa của
những từ này: "Tôi lấy nhịp sóng hơi thở làm sự sống, cái chết của mình".
4) Năng
lực thần thông tôi chẳng có,
Chỉ lấy thật chân làm sức mạnh
cho mình.
Có nhiều người, khi thiền tập vẫn còn đang ở giai đoạn
chập chững, non nớt, đôi lúc cũng đã muốn, ít nhất là đôi lúc, có được một chút
năng lực huyền bí nào đó như là khả năng thấu thị (thiên nhãn) hay có thể tạo
ra được những hình ảnh phi thường, đại loại là những thứ như vậy. Khi trí tuệ
đã trưởng thành hơn, bạn sẽ không còn bị ấn tượng bởi những năng lực phi thường
ấy nữa. Tác giả của bài kệ này coi trọng và đề cao giá trị của trí tuệ, vì vậy
ông nói ông không có năng lực siêu nhiên nào. Ông lấy tấm lòng chân thực làm
sức mạnh siêu nhiên của mình.
Sự chân thật quả là có năng lực thật vĩ đại. Nếu nói
một cách thực sự hoàn toàn chân thật (mặc dù tôi hy vọng là mình cũng không quá
chấp vào điều đó), tôi phải nói rằng thành thật 100% là một điều cực kỳ khó,
khó vô cùng. Đó là lý do tại sao trong một bài kinh, Đức Phật đã hai lần nhấn
mạnh đến từ trung thực và chánh trực. Ngài nói "Uju ca, suhuju ca"(Kinh
Từ Bi), nghĩa là "ngay thẳng và chánh trực".
Con người rất cần sự chân thật trong quan hệ với nhau.
Giả bộ yêu thương trong khi mình thực sự không hề thương yêu, cố tỏ ra thích
thú trong khi mình không thể thích, những điều đó làm cho cuộc sống thật vô
nghĩa. Sự gượng gạo, giả tạo không bao giờ có thể mang lại sự thỏa mãn thực sự
cho tâm hồn bạn. Chỉ có những điều chân thật mới có thể mang lại sự mãn nguyện
thực sự cho mình.
Đôi khi có người nào đó đang rất ghét, rất giận, thù
hằn với bạn nhưng lại cố giả đò ra không phải vậy, vẫn đóng kịch cư xử bình
thường. Bạn sẽ cảm thấy rất khó chịu khi phải sống như vậy, trong lòng vẫn biết
thực ra anh ta đang rất ghét mình. Thực sự thì tôi thích người đó cứ nhận là
mình đang giận còn hơn, cuối cùng thì tốt nhất là cứ thẳng thắn với nhau, sau
đó chúng ta có thể nói chuyện với nhau về vấn đề khúc mắc giữa hai người, và có
thể cả hai sẽ tìm ra được một cách giải quyết nào đó cho ổn thoả.
Nếu người đó vẫn không chịu thừa nhận, vẫn cứ giả bộ
vô tư và nói những điều đại loại như là: "Ồ, không, tôi không phải là loại
người hay cáu giận như vậy đâu", như vậy thì mọi thứ vẫn còn tiếp tục thật
khó chịu, không có cách nào để giải quyết vấn đề được cả. Không chịu thừa nhận
có thể khỏa lấp vấn đề đi được một lúc nào đó, nhưng sẽ không làm cho nó biến
mất được.
Để có được quan hệ giao tiếp thật sự chân thành, thì sự
trung thực và cởi mở là rất quan trọng. Chân thật, cởi mở và quan hệ chân thành
với tất cả tấm lòng, điều đó quả thật là mãn nguyện. Nó cũng rất hữu ích để xây
dựng nên một nhân cách và trí tuệ ở cả hai phía.
Không có trung thực
sẽ không có sự trưởng thành thật sự.
Trong thiền tập cũng vậy, chỉ có một sự chân thật hoàn
toàn mới dẫn đến tiến bộ. Một thiền sinh phải không được nói dối, không được
giả bộ biết những điều mà thực ra mình không biết. Nhất là ở trong các thiền
viện, khi thiền sư hỏi: "Thế nào, bạn hành thiền ra sao rồi? Có tốt không?
Có bị phóng tâm không?", có thể bạn sẽ trả lời như vầy: "Bạch thầy,
nếu con ngồi 1 tiếng, thì trong suốt một tiếng đó con không hề bị phóng tâm tý
nào". Nhưng điều này là hoàn toàn không thể nào có. Chỉ khi bạn đã đắc
thiền, và có thể nhập vào an chỉ định thì mới có thể ngồi cả tiếng đồng hồ mà
không bị phóng tâm suy nghĩ. Còn đối với những thiền sinh bình thường, dù định
tâm có tốt đến đâu chăng nữa, khi ngồi lúc này lúc khác, suy nghĩ vẫn còn trở
đi trở lại trong tâm.
Hãy trung thực và nói đúng sự thật. Bạn không nên giả
bộ tỏ ra là mình đã đạt được tuệ giác này nọ, tỏ ra đã hiểu biết những điều mà
mình không thực sự hiểu, cốt chỉ để gây ấn tượng hoặc làm cho ông thầy của mình
hài lòng. Một số thiền sinh còn nói họ hành thiền là vì lợi ích của thầy. Thực
sự thì bạn đâu có cần thiết phải hành thiền thay cho thầy. Thầy sẽ tự thực hành
cho bản thân thầy. Bạn cũng phải tự thực hành cho chính mình như thế. Hãy làm
một cách thật trung thực, chân thành và với đức tin chân chánh, bạn không phải
làm điều đó cho bất cứ một người nào cả.
Bạn có thể bịa đặt là đã đạt được tuệ này, tuệ kia mà
thực sự mình không có và nói ra điều đó chỉ để làm thiền sư hài lòng, có thể
thiền sư sẽ chẳng nói gì cả nhưng thiền sư vẫn biết. Những Sayadaw[3] đã
từng hành thiền và dạy thiền nhiều năm sẽ biết rằng: "người này đang nói
dối mình", khi biết như vậy họ chỉ cảm thấy thương hại cho kẻ đó. Họ cảm
thấy thương hại, bởi vì họ thấy rõ rằng: "Ồ, người này mong muốn quá nhiều
khi nói rằng thiền tập của anh ta đang tiến bộ, đến nỗi anh ta phải tự lừa dối
chính mình như thế". Nhưng nếu vẫn cứ tiếp tục làm như thế, anh ta sẽ
không thể tiến lên một chút nào được nữa. Vì vậy, đối với những người như thế
này, cần phải nói cho biết là việc anh ta làm như thế là không thể chấp nhận
được.
Xin đừng bao giờ nói dối người thầy của mình. Giữa các
bạn với nhau cũng vậy, bạn cũng muốn làm ra vẻ như là trình độ thiền của mình
giỏi hơn những người khác, "Tôi đã đạt đến trình độ như vầy, như
vầy", đại loại như vậy. Khi đã nói một lời dối trá, bạn sẽ không thể tiến
lên được một chút nào trong thiền. Hành thiền, thực hành Pháp là để chứng ngộ
chân lý, sự thật. Nếu bạn thực sự mong muốn hiểu được chân lý, điều đó chỉ có
thể thực hiện được khi có sự chân thành, ngay thẳng và trung thực - một sự
trung thực hoàn toàn.
Bạn phải làm gì khi đã lỡ nói điều gì đó không chân
thật? Hãy nhìn vào chính tâm mình; tự thú nhận với chính mình là mình đã nói
quá sự thật. Rồi sau đó, hãy tự sửa mình, đính chính lại với người kia rằng:
"Cái tôi vừa nói đúng là có hơi chút phóng đại. Thực sự thì cũng không đến
mức như thế". Chúng ta thực sự rất sợ phải thú nhận như thế, có đúng
không? Điều đó thật là xấu hổ, không dễ mà nói ra được. Đó là lý do tại sao nếu
thực sự muốn hiểu được chân lý, muốn hiểu được chân Pháp, bạn cần phải có rất
nhiều dũng cảm. Nó đòi hỏi bạn phải rất trung thực.
Không có chân thật sẽ không có
giải thoát. Không có chân thật thì
không có cái gì là thực cả.
Mỗi điều dối trá đều trói buộc, cầm tù tâm bạn, vì vậy
bạn không còn được tự do nữa. Một khi đã nói dối, người đó lại phải tiếp tục
nói dối thêm nhiều lần nữa để che đậy lời nói dối ban đầu của mình, như vậy anh
ta sẽ không thể có được một chút thanh thản và an lạc nào. Mà không có những
điều này thì trí tuệ sẽ không thể trưởng thành. Nếu trí tuệ không lớn mạnh, thì
cũng không thể xây dựng được một nhân cách, các phẩm chất trong tâm bạn sẽ
không thể trở thành cao thượng.
Một kẻ dối trá vẫn biết rằng mình đang nói dối và bởi
vậy anh ta không thể tự tôn trọng chính bản thân mình. Anh ta không thể dốc hết
tâm sức, toàn tâm toàn ý làm được bất cứ công việc gì, bởi vì anh ta biết đó
chỉ là sự giả dối; anh ta biết mình đang nói dối. Ở nơi nào có sự dối trá, nơi
đó không thể có được sự tận tâm, hết mình.
Cố gắng giả bộ đóng kịch khi quan hệ, giao tiếp với
người khác sẽ không bao giờ có được sự trân trọng và tình bạn chân thành thực
sự. Khi đó, bạn cũng không thể trưởng thành và có một nhân cách cao thượng được
tôi luyện và phát triển từ những mối quan hệ, giao tiếp ấy được. Trong thiền
tập mà nói dối, bạn sẽ không thể toàn tâm, toàn ý.
Trong thiền, để đạt được sự tiến bộ thực sự rõ rệt,
bạn cần phải thành thật 100% và phải nỗ lực hết mình, toàn tâm toàn ý. Nếu
không làm được điều này, bạn chỉ có thể đạt được một chút Định, một chút Niệm
hời hợt, nông cạn - không thể đạt đến trình độ Định, Niệm thực sự cao thâm.
Khi bạn nói dối mà bạn biết mình đang dối hoặc khi
đang giận mà biết mình đang giận, đó mới chỉ dừng lại ở mức độ Định, Niệm còn
nông cạn, bạn phải tiếp tục tiến lên để đạt đến những tầm cao mới, những trình
độ Định, Niệm cao hơn thế nữa. Tất nhiên, bạn cũng không thể bỏ qua bất cứ một
bước nào trong những bước này, bạn phải trải nghiệm qua tất cả những kinh
nghiệm đó. Vậy, nếu bạn thực sự muốn thực hành thiền thành công, thì hãy nhìn
lại chính mình xem - "Tôi đã hoàn toàn trung thực hay chưa?".
Khi bạn ngồi xuống hành thiền, trước hết hãy tự hỏi
mình: "Khi hành thiền, tôi có thực sự chân thành muốn hiểu được thực tại
tuyệt đối (chân đế) của danh và sắc (thân và tâm) hay không? Tôi hành thiền có
phải để thấy được tam tướng: vô thường (anicca), khổ (dukkha), vô
ngã (anatta) hay không?". Bạn phải thực sự rõ ràng về điều này. Nếu
bạn trung thực và thực sự thực hành, nhất định bạn sẽ tiến bộ một cách vững
chắc. Nó có thể nhanh hay chậm, song nhất định sẽ có tiến bộ.
Trong số những Phật tử cư sĩ của tôi, tôi biết có
nhiều người cũng hành thiền. Lúc đầu thì dường như họ chẳng tiến bộ được mấy,
chỉ 6 tháng sau họ đã tiến bộ được rất nhiều, nhưng sau một năm họ lại chỉ tiến
được rất ít. Sau nhiều năm tháng hành thiền, họ mới tiến bộ được một cách vững
chắc và đều đặn. Nếu bạn kiên trì thực hành với một thái độ đúng đắn, bạn sẽ
luôn tiến bộ. Đây là điều chúng ta cần phải hiểu rõ.
Không có sự trung thực,
sẽ không có một cái gì đến với bạn cả.
Cái giả tạo, thực chất ra chẳng là một cái gì cả.
Không có sự trung thực sẽ không có một điều gì chân thực có thể xảy ra. Đó là
lý do tại sao: "Tôi lấy sự trung thực làm sức mạnh thần thông cho
mình" mang một ý nghĩa rất thâm sâu. Hãy suy nghĩ về nó một cách
thật sâu sắc.
Xem tiếp
0 nhận xét:
Đăng nhận xét