CHƯƠNG I :
Tâm, Chánh niệm và Thiền
Điều quan trọng nhất là phải chánh niệm, hay biết hay ý thức về chính tâm
mình. Và cả những động cơ của bạn khi làm bất cứ việc gì. Hầu hết tất cả mọi
người đều không ý thức được những động cơ của mình khi nói hay làm bất cứ việc
gì, và trong hầu hết các trường hợp, ngay cả khi ý thức được động cơ đó, họ lại
thường tự biện hộ cho chúng.
Sati (chánh niệm) là sự hiện diện của tâm,
hay sự ý thức về chính mình. Hay biết bất cứ những gì đang diễn ra trong hiện
tại mà không có bất cứ một định kiến nào.
Điều quan trọng nhất là hay biết
về chính tâm mình.
Chánh niệm là một phần bản chất của chúng ta. Nó có thể được phát triển một
cách tự nhiên và dễ dàng.
Điều duy nhất bạn kinh nghiệm trực tiếp được là tâm, bao gồm các suy nghĩ,
cảm xúc-tình cảm, thái độ… Tất cả mọi thứ khác chỉ là sự suy diễn. Ngay cả khi
bạn nhìn xuống hai bàn tay mình và cho rằng mình nhìn thấy hình dáng, màu sắc
của nó, mỗi việc đó thôi cũng đã phải đi qua rất nhiều công đoạn. Làm thế nào
để thấy được hình dáng và màu sắc? Cái gì là hình dáng? Và cái gì là màu sắc?
Một người bạn trình pháp với tôi rằng khi anh ta hành thiền và chánh niệm
về tiếng động, lúc đầu thì anh thấy tiếng động từ một nơi nào đó xa xa vọng
lại. Lúc sau chánh niệm hơn thì anh lại cảm nhận tiếng động ở ngay tai mình,
đang diễn ra ở trong tai. Khi chánh niệm hơn nữa, anh lại thấy tiếng động ở
trong tâm mình. Không có tâm hay biết thì không thể có tiếng động.
Thiền, theo cách tôi hiểu về nó, thì không phải là để tạo ra một cái gì cả
(dù đó là sự tĩnh lặng, định tâm hay tuệ giác, hay bất cứ một cái gì khác)[6].
Mà thiền là để thấy rõ bất cứ những gì đang diễn ra trong hiện tại theo một
cách nhìn rất đơn giản. Đặt mục tiêu là sự tĩnh lặng, hay cố gắng tạo ra
sự tĩnh lặng hoặc tuệ giác là bạn đang cố bắt đầu đi từ nơi mà chúng ta sẽ
đến. Do đó chúng ta sẽ luôn tụt lại chỗ đang đứng, bởi vì chúng ta không
bắt đầu đi từ nơi mà chúng ta đang đứng. Một cách diễn tả khác nữa
là: thiền là sự tiếp xúc, kết nối và thấu hiểu nội tâm hoàn toàn; hiểu biết về
cuộc sống (những vấn đề của cuộc sống) một cách sâu sắc chính là thiền.
Không có gì khác nhau giữa việc giải tỏa những nút thắt đau khổ, giải quyết
những vấn đề của mình (vấn đề tâm lý hay bất cứ vấn đề gì) với thiền tập. Nó
đều là những thành phần của cùng một tiến trình.
Đối với tôi, làm công viêc tư vấn tâm lý và hướng dẫn thiền không có gì
khác nhau lắm. Do đó, người nào không hiểu được tâm người khác mà
chỉ có kiến thức sách vở suông thì không thể làm một thiền sư (hoặc người tư
vấn) được mà chỉ là một học giả.
Hầu hết tất cả mọi người đều cần đến sự giúp đỡ của người khác để giải tỏa
những gút mắc tâm lý của chính mình. Để làm được điều đó, một người thầy phàm
tục với những kiến thức thế gian thông thường cũng có thể giúp được… Tôi đã
thấy rõ điều này từ rất lâu trước đây, và đang ngày càng tìm hiểu sâu về nó.
Ngay cả khi ở Mỹ, cách tôi làm việc với mọi người trước hết là phải tìm hiểu
cuộc đời họ, những vấn đề và khúc mắc của họ, để xem họ bị bế tắc chỗ nào. Giúp
cho họ thấy rõ những vấn đề của chính mình. Toàn bộ mục đích của thiền tập là
để giải tỏa – giải tỏa những trói buộc bên trong và bên ngoài.
Không hề có một công thức khô khan và bất biến
nào cho tất cả mọi người. Con người không có ai
giống ai. Do đó cần phải có sự linh hoạt.
Đức Phật đã sử dụng nhiều cách dạy khác nhau
cho những người khác nhau.
Theo cách hiểu của tôi thì một thiền sư phải là một người rất nhạy cảm và
tinh tế. Người thầy phải là một người thấu hiểu chính bản thân mình một cách
thật sâu sắc. Người thầy phải ý thức rõ về những nút mắc của chính mình; phải
rất sáng tạo khi dạy dỗ mọi người; phải hiểu rõ từng học trò của mình một cách
sâu sắc; kiên nhẫn và nhẹ nhàng khi hướng dẫn họ; không tạo áp lực hay đòi hỏi
người học trò phải tiến bộ bởi vì điều đó sẽ làm cho họ cảm thấy mất tự tin và
không thoải mái, không an vui. Người thầy phải hiểu được người học trò của mình
đang đứng ở chỗ nào.
Bạn biết đấy, chúng ta phải xuất phát
từ nơi mà chúng ta đang đứng chứ không phải
từ nơi mà chúng ta sẽ đến.
Vì vậy, người thầy phải hiểu được người học trò của mình đang đứng ở đâu và
hướng dẫn người học trò của mình để họ có thể bắt đầu cất bước đi từ nơi họ
đang đứng.
Những kỹ thuật thiền tập đang được rất nhiều người dạy và thực hành hiện
nay, đều có những mặt hạn chế nhất định. Đó là do họ không hiểu biết về thiền
một cách đúng đắn và cố gắng thực hành như thể thiền là một phần nào đó tách
rời khỏi cuộc sống.
Thiền chánh niệm đích thực phải bao hàm toàn bộ cuộc sống. Không để một
phần nào trong cuộc sống tinh thần và thể chất (thân và tâm) của chúng ta bị
chánh niệm bỏ quên. Tất cả mọi mặt trong cuộc sống của chúng ta cần phải được
thấu hiểu một cách tường tận, sâu sắc.
Một pháp hành thực sự phải hết sức tự nhiên, uyển chuyển, sống động, không
bị gò bó, giới hạn và phải thực hành được ở mọi nơi, mọi lúc. Một cung cách
thực hành chuyên biệt và tách rời[7] là
không chấp nhận được đối với tôi. Giờ đây, tôi bắt đầu cảm thấy phương pháp
thiền chuyên biệt hóa và gò ép theo một quy chuẩn nhất định là rất có hại (tôi
không bao giờ có thể tự bó buộc và cưỡng ép mình làm điều đó được).
Đối với tôi, thiền không phải là
một công việc gì đặc biệt cả.
Nó là một phần trong sự học hỏi của tôi.
Điều lý tưởng nhất là luôn luôn chánh niệm.
Đối với tôi, tất cả mọi thứ trên đời dường như rất phù phiếm. Nó chỉ là
những trò chơi điên rồ. Lúc nào cũng gấp gáp, vội vàng, vô nghĩa, thật vô
nghĩa. Tại sao cứ phải lăng xăng nhiều đến vậy làm chi?
Thiền tập là việc thiện nhất trên đời.
Nếu có chánh niệm và trí tuệ, bạn sẽ không bao giờ bị lạc lối.
Việc tốt đẹp nhất mà tôi làm được cho chính mình là chánh niệm. Hãy nhìn kỹ
vào tâm mình, nhìn kỹ vào cuộc đời mà xem, bạn bị lệ thuộc biết bao nhiêu vào
người khác và vào sách vở. Hãy xem bạn dễ bị buồn chán như thế nào. Bạn có thể
sống với sự buồn chán đó mà không làm gì khác, chỉ mỗi chánh niệm về nó thôi có
được không?
Thực ra, không làm gì cả không phải là một điều dễ dàng. Tôi tin rằng bạn
hiểu được điều đó từ kinh nghiệm thực tế của chính mình. Khi không làm gì cả,
tâm bạn ra sao? Bạn đã quan sát kỹ điều đó chưa? Sự buồn chán thật là khó chịu
đựng. Chính vì vậy mà chúng ta cứ phải cố đi tìm một việc gì đó để làm, để chạy
trốn khỏi nỗi buồn chán. Cứ thử cố không làm gì cả trong vài ngày mà xem nó khó
chịu như thế nào.
Không làm gì cả không phải là chuyện dễ. Nếu bạn cố để không làm gì cả, thì
đó cũng là đang làm rồi. Nếu bạn cố gắng hoàn thành một việc gì đó, cũng là
đang làm. Và khi đó bản ngã[8] của
bạn rất mạnh. Còn khi không làm gì cả, bạn lại cảm thấy vô nghĩa và trống rỗng.
Không làm gì là một trạng thái tâm không còn bản ngã. Hành động mà không
phản ứng; không có ai hành động cả. Và điều quan trọng nhất, làm những điều
thiện mà không hề mong đợi được đền đáp lại bất cứ điều gì.
Hiểu biết đến với những người
không vội vàng tìm kiếm sự hiểu biết.
Hiểu biết giống như trồng cây ăn quả;
cần phải có thời gian để quả chín.
Chúng ta không thể cưỡng ép bắt cây phải ra trái.
Thay vì chạy trốn khỏi sự buồn chán, nếu bạn biết làm việc với nó bạn sẽ
tìm thấy một sự tỉnh giác, sống động và sáng suốt ở đằng sau nó. Khi đó, tâm
mới có khả năng làm việc được. Hầu hết chúng ta chỉ đầu hàng sự buồn chán và tự
biến mình trở thành một kẻ bận rộn tối ngày. Khi bận rộn chúng ta mới có cảm
giác mình là người hữu dụng, là người quan trọng. Khi không làm gì cả, chúng ta
cảm thấy mình vô dụng và hổ thẹn về điều đó. Một số người còn lấy làm hãnh diện
khi thấy mình bận rộn nữa chứ.
Bình thường tâm chúng ta luôn luôn ở một trạng thái đờ đẫn, mụ mị. Chúng ta
cần phải có một sự kích thích nào đó, hoặc là phải nói chuyện hay đọc sách hay
đi lại…để làm cho tâm mình tỉnh táo. Nếu không có những thứ đó, nó luôn ở trạng
thái mụ mị, nửa tỉnh nửa mê.
Nếu luyện tập cho tâm mình luôn tỉnh táo
trong mọi lúc mà không cần những sự
kích thích như vậy, bạn sẽ tìm thấy cho mình
một nguồn năng lượng mới.
Chỉ nhờ vào chánh niệm liên tục từng giây phút
bạn mới đạt tới điều đó được.
Dù bạn đang thực hành trong những khóa thiền tích cực hay không, điều quan
trọng là phải chánh niệm liên tục. Tham dự những khóa thiền tích cực rất có
ích. Nhưng điều rất quan trọng là phải duy trì sự thực hành để có thể giữ gìn
được trạng thái tâm sáng suốt đó. Nếu không bạn sẽ xuống dốc lại thôi. Giống
như bơi ngược dòng, nếu không bơi liên tục bạn sẽ bị nước cuốn trôi trở lại
phía dưới.
Sự tinh tấn trong thiền tập giống như sự cố gắng khi bạn tập đi xe đạp. Lúc
mới tập, bạn cố gắng rất căng thẳng để giữ thăng bằng và thường là bị ngã. Khi
đã tập đi tập lại nhiều lần, bạn học được cách cố gắng ở mức vừa đủ để giữ mình
trên xe, vì vậy dành được thêm sức để đạp xe đi. Bạn học hỏi bằng
cách thực hành.
Điều quan trọng nhất, theo tôi, đó là sự liên tục. Nếu bạn đã biết
được chánh niệm có ý nghĩa như thế nào, bạn sẽ ngày càng chánh niệm hơn. Nhờ
chánh niệm, bạn sẽ học được cách giữ chánh niệm bằng cách cố gắng một cách thư
giãn, thoải mái. Nếu bạn nghĩ mình cần cố gắng nhiều hơn nữa, hãy thử đi mà xem
điều đó ảnh hưởng đến tâm mình, ảnh hưởng đến chánh niệm của mình như thế nào.
Dần dần bạn sẽ học được cách duy trì chánh niệm liên tục. Bạn sẽ thấy rằng khi
thất niệm tâm bạn không còn được thoải mái và an vui nữa.
Tôi muốn được giải thoát và được bình an, cả về thể xác lẫn tinh
thần. Do đó, tôi luôn tìm hiểu xem những gì làm cho người ta không
được giải thoát và bình an.
Càng nhìn rõ những gì đang trói buộc mình,
chúng ta càng có nhiều cơ hội để giải thoát.
Câu trả lời rất đơn giản – sự dính mắc và ngã mạn. Nhưng thấy chúng đang
thể hiện trong thực tế mới là điều quan trọng nhất, chứ không phải chỉ mỗi suy
nghĩ về nó mà thôi.
Tôi không muốn bận rộn. Bận rộn là một cách sống phí hòai. Khi bận
rộn, bạn bị chìm đắm quá mức vào công việc đến mức không thể thấy gì
đang diễn ra trong tâm mình nữa. Bạn thất niệm, không còn ý thức được chính
mình. Chính vì vậy tôi không muốn trở thành một vị thầy bận rộn.
Nếu bạn muốn đạt được nhiều lợi ích nhất
từ thiền, hãy thực hành hết mình.
Hãy thực hành như thể không có việc gì khác
bạn muốn làm trên đời. Hãy để ý nhận biết
những thứ khiến tâm mình bị phân tán!
Nếu cách thực hành nào đó có hiệu quả đối với bạn (như việc niệm thầm chẳng
hạn)[9],
thì cứ thực hành theo. Thực hành lâu dài và thực hành thật tốt đến mức bạn hiểu
hết mọi ưu điểm và khuyết điểm của phương pháp đó.
Để học bơi thì bạn phải xuống nước. Chứ không thể nào chỉ ngồi trên bờ và
bảo người ta dạy bơi cho bạn được. Chỉ với những hướng dẫn tối thiểu là bạn có
thể xuống nước và tự dạy mình bơi được rồi. Hãy chọn một (hay hai) đề mục thích
hợp cho mình, và hãy chánh niệm liên tục về nó.
Sự liên tục là điều quan trọng nhất.
Suy nghĩ không làm cho bạn hạnh phúc. Hãy quan sát những suy nghĩ đó nhưng
đừng mong muốn kiểm soát chúng. Khi bạn thấy chúng thật rõ ràng, chúng sẽ tự
động dừng lại. Suy nghĩ là một gánh nặng rất lớn.
Thiền chánh niệm là ý thức về, là hay biết (một cách có ý thức) tất cả mọi
thứ đang diễn ra qua 6 giác quan[10] trong
mọi lúc, từ thời điểm đầu tiên khi bạn thức dậy cho đến thời điểm cuối cùng khi
bạn chìm vào giấc ngủ. Chứ không phải chỉ mỗi lúc bạn ngồi thiền thôi đâu.
Điều quan trọng hơn nữa là phải chánh niệm và hiểu rõ những định kiến,
những ý tưởng, những mơ mộng mà mình đang dính mắc, đang chấp thủ, cũng như sự
cô đơn, nỗi buồn bực, bất mãn và các trạng thái cảm xúc, tình cảm khác, dù yếu
hay mạnh đang có trong tâm mình.
Tôi cảm thấy hạnh phúc khi ở một mình. Phải chuyện trò thật là chán. Mọi
thứ trên đời và cả con người nữa đang ngày càng mất dần ảnh hưởng đối với tôi.
Thật là khó để diễn tả cảm giác này. Tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thản hơn rất
nhiều ở trong tim mình.
Đừng coi tình cảm và cảm xúc quá quan trọng. Và cũng đừng biện hộ cho chúng
nữa. Bạn đang sống cuộc sống của chính mình và bạn có quyền được làm những gì
mà bạn cho là đúng đối với mình vào thời điểm đó. Nếu bạn phạm sai lầm, hãy học
hỏi từ chính những sai lầm đó – thế thôi.
Nếu bạn phạm sai lầm và gặp rắc rối, hãy nhìn thẳng vào nó và đừng kêu ca
hay đổ lỗi cho người khác hay cho chính mình, đừng chạy trốn nó; cũng đừng tự
biện hộ cho mình hay buồn bực về chuyện đã xảy ra. Nếu bạn có thể thấy ra được
điều này mà không hề chống đối, kháng cự lại nó, bạn sẽ vượt qua và trưởng
thành lên một cách dễ dàng và nhanh chóng. Giờ đây tôi đã làm được điều đó ngày
càng tốt hơn.
Quan hệ giữa con người với con người thật là phức tạp. Tôi đã từng nói với
bạn nhiều lần: tôi đang ngày càng trở nên cô độc hơn. Tôi rất hiểu bạn khi bạn
nói rằng: “Tôi rút lui vào độc cư trong chính mình”. Nếu bạn quan sát tâm mình
thật kỹ mà không mong muốn nó phải khác đi, nó sẽ tháo gỡ cho bạn những nút rối
trong tâm, nhưng đừng nhìn tâm mình chỉ với mục đích là để giải quyết những nút
rối. Điều đó sẽ tạo nên xung đột. Hãy nhìn thấy rõ bản chất vô ngã trong tâm
bạn (anattā-vô ngã-thân, tâm này chỉ là tập hợp các hiện tượng tự nhiên đang
diễn tiến, không có gì là tôi, của tôi, là tự ngã của tôi cả).
Tôi đã mệt mỏi với những “trò diễn” của cuộc đời.
Tháng vừa rồi, tôi dành nhiều thời gian hơn để hành thiền. Sống một mình
thật là thích! Tôi ngày càng ít muốn đọc hơn. Giờ đây tôi chỉ muốn đọc tâm mình
nhiều hơn. Tôi chẳng học được điều gì thật sự sâu sắc từ sách vở cả.
Khi tôi nhìn vào cuộc đời mình,
nhìn vào tâm mình thật rõ ràng, chỉ khi ấy
tôi mới học được điều gì đó thật sự sâu sắc.
Sống trong kiếp con người, hiểu biết về bản chất con người nói chung và
hiểu biết về tâm mình nói riêng, là điều lợi ích nhất trên đời mà con người ta
có thể làm được.
Những gì tôi đang làm ở đây thật vô cùng quan trọng đối với tôi (tôi muốn
nói đến việc tìm hiểu tâm mình), đến mức tôi không muốn ngắt quãng nó trừ phi
có một lý do nào đó thật đích đáng. Thực lòng tôi muốn đi đến một nơi nào đó
vắng vẻ hơn, sống một mình và dành hết thời gian để hành thiền, không bị ngắt
quãng chút nào. Chẳng có gì trên đời đáng để mình phải phân tán cả.
Bạn đã từng đọc; đã từng chuyện trò; đã từng thảo luận; đã từng suy nghĩ
rất nhiều; và tâm bạn vẫn rối như tơ vò.
Đủ rồi, tất cả những điều đó đã quá đủ rồi!
Sự sáng suốt, thanh tịnh làm cho tâm mình bớt dính mắc hơn rất nhiều. Tâm
tôi giờ đây rất sáng suốt và ít dính mắc. Tôi không muốn bị phân tâm vào bất cứ
việc gì.
Bạn không mơ hồ gì về việc mình đang bị mơ hồ chứ? Nhiều người còn chẳng
biết mình đang mơ hồ nữa cơ. Họ quá điên rồ hoặc quá bận rộn đến nỗi chẳng có
thời gian mà nghĩ đến điều đó. Tất cả những gì tôi có thể nói với bạn là đừng
suy nghĩ quá nhiều và hãy chánh niệm. Bạn biết đấy, suy nghĩ quá nhiều chỉ
khiến mình càng thêm rối trí và mơ hồ hơn nữa mà thôi.
Nếu bạn có thể chánh niệm được trong lúc ốm đau, bệnh tật, bạn sẽ học hỏi
được những điều vô cùng sâu sắc và ý nghĩa. Bạn sẽ thấy mình cô đơn đến như thế
nào và mọi thứ trên đời này mới vô nghĩa làm sao. Khi việc tồi tệ nhất trong
các việc tồi tệ xảy đến, chúng ta thật sự sẽ chỉ có một mình.
Tôi đang nhìn thấy sự cô đơn ngày một rõ hơn. Chỉ có một số rất ít người có
thể chạm đến được với mình và hiểu được mình mà thôi. Giữa mỗi con người chúng
ta luôn có một khoảng cách rất lớn của sự thiếu hiểu biết lẫn nhau.
Bạn có thể giải thích cho cô ấy làm thế nào để chánh niệm, quan sát được
những suy nghĩ và cảm xúc của mình hay không? Đừng kiểm soát nó. Chỉ là sự
chánh niệm đơn giản, thuần túy hay biết tâm mình. Nhưng mẩu đối thoại đơn
phương, những câu đối đáp, những mẩu chuyện vô bổ đang diễn ra suốt ngày trong
tâm mình. Những sự đánh giá và phán xét…
Chánh niệm là một cách sống. Bất cứ ở nơi đâu, bất cứ công việc gì đang
làm, hãy làm một cách thật chánh niệm (một cách thật ý thức, có sự quan sát
khách quan chính bản thân mình). Suy nghĩ là một trở ngại lớn đối với chánh
niệm. Chúng ta cần phải lưu ý đến điều đó. Thực ra, chánh niệm về các suy nghĩ
là một điều rất quan trọng. Hãy quan sát tâm mình mà không đổ lỗi hay đánh giá,
phán xét nó. Hãy nhìn nó như chính nó đang là, không phải là mình, không phải
là của mình.
Trong thiền, hãy quan sát bất cứ cái gì
đến một cách dễ dàng và tự nhiên.
Điều quan trọng nhất là phải hứng thú
và đúng ra là phải có hứng thú và niềm vui
khi làm điều đó.
Thực hành thiền đúng là phải cảm thấy một sự thỏa mãn trong khi thực hành.
Mỗi khi bạn cảm thấy chán là tâm sẽ có thái độ tiêu cực với nó ngay. Khi có
thái độ tiêu cực như vậy bạn sẽ thấy việc thực hành rất mệt mỏi. Bạn nói Tín
tâm (saddhā) = Sức mạnh. Đúng vậy, khi có đức tin vào pháp hành, bạn sẽ
có đủ sức mạnh để làm việc đó.
Nếu bạn thấy hứng thú quan sát tâm mình thay vì quan sát chuyển động
phồng-xẹp của bụng[11],
thì tại sao lại không làm việc đó? Tâm là cái thú vị nhất trên đời.
Hãy đi kinh hành nhiều
hơn và hãy chánh niệm. Nếu bạn càng nghĩ nhiều đến cách làm thế nào để cải
thiện tình trạng hiện tại, bạn sẽ lại càng bất an hơn. Lúc nào cũng dự tính cho
tương lai – “Tôi sẽ hạnh phúc nếu tôi được ở một nơi tốt đẹp”. Lúc nào cũng:
“Tôi sẽ hạnh phúc nếu…”. Chứ chẳng bao giờ thấy: “bây giờ tôi đang hạnh phúc…”.
Dự định, vạch kế hoạch, thay đổi cái này cái kia…quá đủ rồi!
Ước muốn “trở thành” cái này - cái kia, người này - người nọ, chi phối cuộc
sống của chúng ta quá nhiều. Chúng ta không thấy được rằng chẳng có “ai” ở đó
cả để mà ước, mà muốn. Làm sao có thể “trở thành” được khi không có
một “ai” đó để mà trở thành? Hãy chỉ đơn giản nhìn những gì đang diễn ra trong
giây phút hiện tại này, mà không có bất cứ động cơ thay đổi nó chút nào.
Tôi hiểu được sự đấu tranh, vật lộn (với phiền não) và nỗi khổ của bạn. Tôi
biết bạn đang cố gắng hết sức để trở thành một người đệ tử tốt của Đức Phật.
Khó! Ngay cả giữ được 5 giới thôi
cũng chẳng phải là điều dễ làm. Đúng thế, có người cho rằng đắc được đạo quả
Tu-đà-hoàn (sotāpatti maggaphala) chưa
là cái gì cả. Họ không thể hiểu được sự phi thường thế nào khi tâm không còn tà
kiến (micchā ditthi,
khi đã vượt qua được giới cấm thủ (sīlabbataparāmāsa).
Để thấy được rõ ràng chỉ có thực hành Phá mới
là con đường duy nhất đưa đến giải thoát và hạnh phúc. Họ không hiểu được sự
phi thường khi tâm đã sạch bóng không còn mảy may thói ghen tỵ (issā);
hoan hỷ với sự thành đạt của người khác; rộng lòng hào hiệp chia sẻ bất cứ thứ
gì mình có cho người; đã vượt qua được tất cả mọi hồ nghi về sự thực hành pháp
của mình (hồ nghi không biết đây có phải là con đường đúng hay không).
Thật là nhẹ nhàng thanh thản biết bao khi không
còn nghi ngờ gì nữa về con đường mình đang đi.
Tôi có thể hiểu được việc thực hành chánh niệm (sati) khó khăn như
thế nào đối với những người sống một cuộc sống bận rộn như vậy. Bản thân tôi
cũng chưa thể chánh niệm được đến 100%. Tốt nhất là bất cứ công việc gì không
cần thiết, hãy cắt bớt đi. Trước nay chúng ta chỉ nhất nhất tuân theo những gì
tâm mình sai khiến, nhưng nếu nhìn tâm mình sâu sát hơn, chúng ta sẽ thấy chúng
ta không cần phải tin tất cả những gì tâm bắt mình phải tin, không phải chạy
lăng xăng như một kẻ điên làm theo tất cả những gì tâm bảo chúng ta phải làm.
Người có khả năng làm được mọi thứ
cần phải học cách tự hạn chế bản thân
mình.
GOETHE
Chúng ta phí phạm biết bao nhiêu thời gian để theo đuổi những công việc rất
phù phiếm, vụn vặt. Đức Phật dạy chúng ta nên sống ít phận sự, ít công việc (appakicco).
Nếu bạn cẩn thận tự hạn chế mình, bạn sẽ phát triển được mức chánh niệm sâu
sắc hơn. Nếu không thể giữ chánh niệm được trong cuộc sống hàng ngày, bạn sẽ
không thể phát triển được những hiểu biết sâu sắc về cuộc đời. Hiểu biết về
cuộc đời và hiểu biết về Pháp đi cùng với nhau. Điều đầu tiên là hãy học cách
sống cuộc đời mình một cách có ý nghĩa, một cách tỉnh táo.
Tôi ít khi gặp được những người có lòng say mê sâu sắc trong Pháp như bạn.
Hầu hết mọi người thậm chí còn chẳng biết được trạng thái tâm của chính mình.
Tất cả chúng ta đều có những trạng thái
tâm tốt (tâm thiện) và những trạng thái
tâm xấu (tâm bất thiện).
Chánh niệm, nhận biết cả hai trạng thái tâm đó
là điều đầu tiên và quan trọng nhất cần làm.
Chúng ta thực sự không kiểm soát được tâm mình chút nào hết, chính vì thế
nó mới là vô ngã (anattā). Phải thấy ra rằng bạn không phải là người tạo
ra những trạng thái tâm bất thiện ấy.
Hiểu biết về bản chất của tâm mình, tức là bản chất tham (lobha),
sân (dosa), si (moha), ngã mạn (māna),
ghen tỵ (issā), bỏn xẻn-keo kiệt (macchariya), hối (kukkucca)…;
cả chánh niệm (sati), định (samādhi), tuệ (paññā), tâm từ
(mettā), tâm bi (karunā)…còn quan trọng hơn việc đắc được một
tầng đạo quả nào đó hay đoạn trừ được một loại phiền não (kilesa)nào
đó.
Sự hiểu biết đến trước tiên;
sự vượt qua (phiền não) sẽ xảy đến một cách
tự nhiên sau đó.
Vì vậy, hãy sẵn lòng quan sát bất cứ những gì
đang diễn ra trong hiện tại.
Phải thấu hiểu bản chất của chúng trước đã.
Nếu bạn thất vọng bởi vì trong tâm bạn vẫn còn tham, sân…khi đó bạn sẽ
không thể thấy được mọi thứ một cách rõ ràng bởi vì tâm bạn xáo động, tâm bạn
có sân (khó chịu, bất mãn)[23].
Hãy nhìn ngay cả những cái đó nữa.
Chỉ khi bạn sẵn lòng nhìn tâm mình
mà không có mặc cảm tội lỗi, không muốn làm
bất cứ điều gì đối với nó, chỉ khi đó bạn mới
có thể thấy nó một cách rõ ràng.
Khi đó nó sẽ mất đi quyền lực đối với bạn bởi vì
nó đã bị lộ mặt – nó bị bạn thấy rõ.
Xin đừng lên án tham, sân, ngã mạn…Bạn có thể học hỏi được rất nhiều từ
chúng. Bạn không thể trưởng thành được trừ phi bạn hiểu biết thật rõ về chúng.
Chỉ khi nào thấy rõ chúng với một cái tâm sáng suốt thì bạn mới học hiểu được
về bản chất thật sự của chúng, nhất là bản chất vô ngã (ānatta).
Bước đầu tiên và quan trọng nhất trong thiền là không đồng hóa với
các hiện tượng của thân (sắc-rūpa) tâm (danh-nāma).
Thiền không phải là để vượt qua cái gì hết,
mà là vượt qua sự tự đồng hóa chính mình
với các tiến trình danh sắc (nāmarūpa).
Tại sao người ta buồn bực và thất vọng? Bởi vì họ tự đồng hóa mình với danh
sắc. Vì vậy, mỗi khi tâm mình có tham, sân, dục vọng, ngã mạn hay dính mắc…điều
quan trọng nhất là hãy nhìn chúng như là một hiện tượng tự nhiên, chứ không
nhìn chúng như một cái gì đó thuộc về cá nhân mình. Đừng cố tìm cách vượt qua
chúng[26].
Thất vọng là một cái bẫy của bản ngã.
Có người nào (attā) ở đó mà thất vọng? Thất vọng chỉ là một hiện
tượng tự nhiên nữa mà thôi. Thất vọng là bản ngã phình đại. Nếu tâm không thất
vọng, nếu không có sự đồng hóa trong tâm quan sát-nghĩa là quan sát một cách
bình thản, với tâm xả, tâm sẽ quan sát được các trạng thái tham, sân…với sự
hứng thú, định tĩnh và sáng suốt và thấy rõ như nó đang là – chỉ là một hiện
tượng tự nhiên thoáng qua, không có thực và không thuộc về cá nhân ai cả. Không
có sự đồng hóa, chúng sẽ không thể lớn mạnh như vậy được. Một vị thánh Tu-đà-hoàn
(sotāpanna) vẫn
còn tham, sân…nhưng không còn tự đồng hóa mình với danh sắc (thân-tâm) nữa. Chỉ
những bậc thánh A-na-hàm (anāgāmīs) và A-la-hán (arahats) mới
hoàn toàn đoạn trừ được tham và sân. Nhưng chỉ bậc thánh A-la-hán
mới thoát khỏi ngã mạn (māna).
Nếu bạn thất vọng vì thấy mình vẫn còn thích nghe nhạc thì tức là bạn đang
đòi hỏi ở mình quá nhiều, đang mong đợi quá nhiều. Song nếu bạn nhìn cái tâm
thích đó và quan sát nó một cách bình thản, chỉ khi đó bạn mới thấy được nó như
nó đang là. Thất vọng, buồn bực (mà thực ra đó chính là tâm sân) là người bạn
đồng hành gần gũi của tâm tham và ngã mạn. Bởi vì bạn nghĩ: tôi là một thiền
sinh, lẽ ra trong tâm tôi không nên có tham và ngã mạn khởi lên như vậy, và bạn
thất vọng về điều đó. Mỗi khi có tâm tham hay sự ham thích khởi lên, hãy nói
với nó: hãy ở lại để tao soi xét, nghiên cứu mày. Thực ra nghiên cứu nó rất là
hay. Tâm tham là một nghệ sỹ ảo thuật vĩ đại nhất. Hãy học hiểu và thấy rõ cách
chúng tạo nên những cảm giác ưa thích như thế nào. Cái tâm mình bị tâm tham lừa
đảo đến mức chúng ta không thể thấy được nó như một nhà ảo thuật, chúng ta chỉ
thấy nó là “mình”.
Cái tâm mình rất là lưu manh. Nó luôn luôn muốn thay đổi, muốn có cái gì đó
khác biệt. Nó khao khát sự giải trí, khao khát sự kích thích. Buồn chán là một
vấn đề rất lớn. Đó là điều hầu hết mọi người đang làm – chạy theo sự kích thích
dưới hình thức này hay hình thức khác.
Nếu không cảnh giác quan sát tâm mình, chúng ta có thể sẽ tự mãn
bởi vì mình là người hành thiền, là Phật tử, là người hiểu biết Phật Pháp; là
người biết đúng-sai, phải-trái…đó cũng lại là ngã mạn nữa.
Mỗi khi khởi sanh tâm ngã mạn, hãy sẵn lòng quan sát nó, hãy nhìn nó thật
kỹ. Đừng cố xua đuổi nó đi. Quan sát thật rõ ràng là điều rất quan trọng. Mọi
việc còn lại sẽ tự nó lo cho chính nó. Chỉ khi nào bạn đắc đạo quả A-la-hán thì
mới hoàn toàn thoát khỏi ngã mạn cơ mà.
Đừng cố tập hạnh khiêm tốn; đó sẽ chỉ là sự khiêm tốn khiên cưỡng, ép buộc.
Chỉ cần chánh niệm quan sát cái tâm ngã mạn đó. Nếu nhìn tâm mình thật rõ, bạn
sẽ trở nên khiêm tốn một cách tự nhiên. Bạn sẽ không cảm thấy mình đang cố tập
hạnh khiêm tốn nữa. Bạn trở nên ít kiêu mạn hơn mà không cần phải cố tình làm
điều đó.
Không thấu hiểu về hệ quả trực tiếp của các trạng thái tâm thiện và bất
thiện, bạn sẽ không thể biết trân trọng Pháp một cách thực sự.
Sự tuân phục bề ngoài đối với bất cứ
một phương pháp thực hành tôn giáo nào
cũng không bao giờ đem lại được kết quả
sâu sắc và lâu dài.
Thấu hiểu những phản ứng của tâm đối với mọi sự tiếp xúc qua 6 giác quan là
rất quan trọng, nhất là sự ảnh hưởng của các tư tưởng, quan điểm và ý kiến và
sự dính mắc đối với chúng.
Bạn có hiểu về các trạng thái tâm thiện (kusala) và bất thiện (akusala)
của mình không? Tôi nghĩ đây là điều căn bản nhất của pháp hành. Tôi không muốn
dùng từ tốt và xấu để nói về kusala (thiện) và akusala (bất
thiện). Tôi không nói hiểu chúng bằng cách đọc trong sách hay bằng suy nghĩ. Mà
hiểu chúng bằng cách thấy chúng trực tiếp trong thực tế. Thấy rõ sự khác biệt
của chất lượng tâm khi có tâm thiện và khi có tâm bất thiện.
Đôi khi tôi thấy những điều này thật rõ ràng và hiểu ra rằng không đáng
phải có những trạng thái tâm bất thiện đó trong tâm mình dù bất kể ở hoàn cảnh
như thế nào.
Nhất định phải có một cách thức thích hợp
để đối diện với những hoàn cảnh khó khăn
mà không nhất thiết phải khởi tâm bất thiện.
Đó là trí tuệ - có thể sống trong bất cứ
hoàn cảnh nào mà không khởi tâm bất thiện.
Để có được trí tuệ đó, đầu tiên là chúng ta phải chánh niệm rõ ràng
về những phản ứng của tâm mình trong tất cả mọi tình huống. Phản ứng của tâm
mình với tất cả mọi thứ chúng ta nhìn, nghe…
Hãy nhìn bất cứ những gì đang diễn ra trong tâm mình mà không muốn nó phải
khác đi, dù đó là bất thiện, không đáng ưa thích, không đẹp đẽ, không đáng mong
cầu, hay cả tham, sân, dục vọng, hồ nghi, ngã mạn; và nhìn bất cứ những gì ưa
thích đang diễn ra trong tâm mà không muốn bám víu, dính mắc vào chúng, không
muốn kéo dài chúng thêm (dù đó là sự tĩnh lặng, bình an, hỷ lạc hay sự tỉnh
giác, sáng suốt…). Điều này rất quan trọng.
Mỗi lúc tâm muốn kiểm soát tình huống (phản ứng, cản trở hay ngăn chặn
những gì đang diễn ra, hay cố tạo ra, mang đến hay làm cho nó phải kéo dài),
tâm sẽ bị mất quân bình.
Phản ứng là tâm sân. Níu giữ là dính mắc.
Nhưng không phản ứng không có nghĩa là
khuyến khích, và không níu giữ
cũng không có nghĩa là xua đuổi.
Chỉ đơn giản quan sát là chánh niệm.
Quan sát mà không tham dự vào những gì
đang diễn ra.
Chúng ta đã quá quen lúc nào cũng phải làm một cái gì đó, phải tạo ra một
cái gì đó đến nỗi không thể hiểu được chỉ đơn giản quan sát là như thế nào.
Chúng ta cứ muốn phải kiểm soát mọi thứ. Chúng ta muốn tham gia vào mọi việc.
Chính vì vậy chúng ta luôn gặp rắc rối. Tôi không có ý nói rằng: đừng tham gia,
đừng kiểm soát bởi vì khi đó thì bạn lại cố để không tham gia, cố để không kiểm
soát. Cái đó thực ra cũng lại là kiểm soát nữa. Vì vậy, nếu bạn thấy mình đang
cố kiểm soát, chỉ cần đơn giản ý thức về điều đó.
Thực ra, tôi ngày càng nhận ra rằng khi không có chánh niệm, cuộc sống rất
phù phiếm, rất hời hợt và nông cạn. Chánh niệm đem lại chiều sâu và ý nghĩa cho
cuộc sống.
Thật là khó để hiểu được những điều này. Mọi người đều nói họ mong muốn
hạnh phúc. Thế nhưng, tại sao họ lại không thể hứng thú khi có chánh niệm thực
sự cơ chứ? Chắc chắn là vì họ cứ nghĩ hạnh phúc nằm ở nơi nào đó khác kia,
chẳng hạn như ở những thú vui dục lạc, thành đạt được những gì mình mong muốn,
trở thành một nhân vật nào đó, leo lên được một địa vị nào đó hay có những tình
cảm, những cảm xúc vui thú nào đó.
Con người ta (cả bạn và tôi) đều tìm kiếm một sự say mê nào đó, một cái gì
đó kích thích mình (đối với tôi, đó là tri thức). Đôi lúc chúng ta muốn nghỉ
ngơi, những sự kích thích đó làm cho chúng ta cảm thấy mệt mỏi. Khi đó chúng ta
muốn thực hành chánh niệm, muốn giữ cho tâm mình tĩnh lặng. Có lúc tôi cảm thấy
thực sự mệt mỏi, cảm giác bị kiệt sức, vì đọc sách, vì nói chuyện, vì suy nghĩ,
vì dự tính, kế hoạch… quá nhiều…Tâm tôi quay lưng lại tất cả những thứ đó. Tôi
thấy chúng mới vô nghĩa làm sao, vô ích làm sao. Những lúc như thế,
chỉ để tâm đơn giản chánh niệm lại rất dễ. Vì vậy, tôi mong mình cứ bị kiệt sức
như thế hoài. Cảm giác bị kiệt sức như thế cũng OK. Thái tử Sĩ-đạt-đa đã từng
cảm thấy kiệt sức, mệt mỏi với cuộc đời như vậy khi ngài rời bỏ gia đình đi
xuất gia.
Điều rất quan trọng là điều chỉnh thân và tâm mình cho thật chuẩn, giống
như khi bạn điều chỉnh chiếc xe của mình hay chỉnh sóng đài radio. Chỉ khi nào
thân tâm mình ở điều kiện tốt, chúng mới trở nên nhạy cảm và có thể bắt được
những bước sóng, những rung động và tín hiệu cần thu nhận.
Vì vậy, điều rất quan trọng là bạn phải tìm hiểu xem mọi thứ tác động đến
thân tâm mình như thế nào. Thức ăn, thời tiết, tập luyện thể dục, nói chuyện,
đọc sách, các thú vui; tất cả đều ảnh hưởng đến thân tâm mình. Và cả thiền nữa.
Thiền làm cho tâm mình trở nên nhạy cảm hơn.
Đối với những người tâm dễ bị phân tán, tốt nhất là giữ cho tâm mình bận
rộn ghi nhận hết đề mục này đến đề mục khác; đối với những người định tĩnh và
chánh niệm, chỉ cần để tâm mình quan sát bất cứ đề mục nào đến một cách tự
nhiên.
Con người ta thích mơ mộng; họ không muốn chánh niệm, chánh niệm về hiện
tại, bởi vì trong hiện tại thì chẳng có cái gì cho họ mơ mộng cả.
Nhìn xuyên thấu tâm mình và không tự lừa dối bản thân mình, giờ đây đó là
nhiệm vụ quan trọng nhất đối với tôi. Khi tôi không tin điều gì đó, điều quan
trọng đối với tôi là phải thấy thật rõ: tôi đang không tin, chứ không cố bắt
mình phải tin.
Tâm chúng ta luôn muốn đắm chìm trong quá khứ hoặc tương lai: nó chỉ chạm
vào hiện tại một cách thật mơ hồ và mờ nhạt, nó không muốn ở trong hiện tại;
lúc nào cũng tìm kiếm những cái làm mình phải phân tán tư tưởng – xem TV, nghe
ca nhạc, đài đóm, ăn uống, nói chuyện, hút xách, đọc sách (ừ, đúng rồi, tôi
quên mất…cả đọc sách nữa chứ) và vô số thứ khác nữa. Chúng ta có thực sự chánh
niệm không?... có, nhưng mà…ha..ha… Chả trách tại sao chúng ta lại sống nông
cạn và phù phiếm đến thế.
Chúng ta thường sử dụng chánh niệm chỉ như một loại thuốc giảm đau.
Chỉ khi nào cuộc đời quá đau khổ chúng ta mới tìm đến một nơi yên tĩnh mà
hành thiền.
Còn không chúng ta rất bằng lòng với những thứ làm mình sống phân tâm và
quên mình như thế.
Chúng ta không thể hoàn toàn thoát khỏi sân giận. Nó sẽ đến khi đủ nhân
duyên cho nó sanh khởi. Tất cả những gì chúng ta làm được chỉ là ghi nhận cơn
sân đang có mặt. Nếu bạn thấy ra thực tế rằng tất mọi người đều đang đau khổ,
điều đó sẽ giúp bạn được rất nhiều khi đối diện với sân hận.
Phản ứng tiêu tốn rất nhiều năng lượng của chúng ta. Khi cơ thể ốm yếu, chỉ
cần một suy nghĩ tiêu cực thôi cũng đủ làm cho bạn kiệt sức rồi.
Hãy xem bạn tự làm hại mình như thế nào mỗi khi buồn bực và bất mãn. Không
có gì đáng để cho mình phải buồn bực cả. Hãy chánh niệm. Hãy nhìn sân chỉ là
sân, không phải “sân của tôi”.
Đừng nói rằng bạn không nên giận. Điều rất quan trọng là bạn phải thực tế.
Chúng ta ôm ấp những lý tưởng, nhưng có thể chẳng bao giờ đạt được lý tưởng đó.
Nhưng như thế không có nghĩa rằng chúng ta không nên có lý tưởng. Mà nghĩa là
chúng ta phải ý thức được về khả năng thực tế của mình. Vì vậy, chớ nên nản
lòng trước khó khăn, thăng trầm. Hãy cố gắng chánh niệm càng nhiều càng tốt.
Hãy cố gắng hết mình.
Trước kia tôi thường cảm thấy khó chịu và xấu hổ về những lỗi lầm của mình,
xấu hổ vì mình không hoàn hảo. Trong một số trường hợp là do sự mong đợi phi
thực tế của mọi người đối với tôi; và không ý thức được điều đó tôi gánh lấy
cái vai diễn mọi người muốn tôi phải đóng. Điều đó là không thể được-phi thực
tế; thậm chí nó còn nguy hiểm; nó làm tôi cảm thấy mình yếu kém. Nhưng giờ đây
tôi đã học được cách sống cho chính mình.
Hãy chánh niệm, dù rằng đôi khi điều đó thật là khó. Khi nào bạn nghĩ rằng
không thể chánh niệm được trong lúc này, đó lại là lúc quan trọng nhất để chánh
niệm.
Mỗi khi tâm bạn bất an, hành thiền là điều quan trọng hơn cả. Khi bạn cho
rằng mình không thể thiền được bởi vì tâm mình đang rối tung, mờ mịt – đối với
bạn đó là lúc quan trọng nhất để hành thiền.
Trong kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipatthāna Sutta), Đức Phật nói: “Vikkhittam
vā cittam vikkhittam cittam pajānāti” (khi tâm bất an, vị ấy hay biết
rằng tâm đang bất an). Không yêu cầu bạn phải làm nhiều hơn thế.
Đức Phật không nói rằng bạn phải cảm thấy tội lỗi vì mình đã tham hay sân.
Bạn chỉ cần hay biết những gì đang diễn ra. Đừng tự lừa dối chính mình. Đó là
tất cả những gì bạn cần làm. Hãy chánh niệm, nhưng đừng tự dằn vặt mình. Chấp
nhận thực tế và sống thật với chính mình là điều quan trọng nhất.
Chỉ cần hay biết được trạng thái tâm của mình trong hiện tại như thế nào là
đủ. Nếu bạn cố làm điều gì hơn thế, cuối cùng sẽ chỉ càng bất mãn và thất vọng
thêm nữa mà thôi. Không thể kiểm soát được gì cả, và điều đó chính là vô ngã (anattā).Sadosam
vā cittam sadosam cittam pajānāti. (Khi tâm có sân, vị ấy hay biết
rằng tâm đang có sân)…pajānāti là hay biết một cách rõ ràng; chỉ
thế thôi, không làm gì hơn thế. Để có một cái tâm tĩnh lặng và bình an trong
mọi lúc là điều không thể có được đối với những người hàng ngày phải tiếp xúc
với quá nhiều người.
Tôi hiểu, đọc một số sách vở Phật pháp hay nghe một số băng đĩa thuyết pháp
có thể làm cho người ta có cảm giác tội lỗi. Lý tưởng quá cao. Chúng ta không
thể với tới được. Chúng ta không cần phải cảm thấy tội lỗi khi hưởng thụ các
thú vui của đời miễn là điều đó không làm hại đến người khác. Hãy nhìn xem bản
chất của những thú vui ấy là gì.
Sukham vā vedanam vedayamāno sukham vedanam vedayāmi pajānāti. (Khi
có một cảm thọ lạc, vị ấy hay biết rằng mình đang có một cảm thọ lạc). Cảm giác
tội lỗi ở đâu mà đến? Ai dạy chúng ta phải cảm thấy tội lỗi mỗi khi hưởng thụ
cuộc sống như thế? Đủ rồi!
Ngay cả khi biết rằng chánh niệm là điều tốt đẹp nhất chúng ta có thể làm
được cho chính mình, nhưng chúng ta vẫn thường xuyên bị lạc hướng, phân tán tư
tưởng vào việc này việc kia. Chúng ta muốn có cái gì đó kích thích mình.
Hãy quan sát tâm mình và xem nó đang làm gì. Nếu bạn thấu hiểu tâm mình,
hầu hết mọi vấn đề của bạn sẽ biến mất, bởi vì hầu hết tất cả mọi vấn đề của
con người đều do tâm tạo – không có cái gì có thực bên ngoài tâm mình cả.
Điều tốt đẹp nhất bạn có thể làm được là hãy chánh niệm, ghi nhận, hay biết
trạng thái tâm của mình mà không đổ lỗi hay biện hộ cho bản thân; không muốn nó
phải khác đi hay chạy trốn nó; không cảm thấy tội lỗi hay hổ thẹn vì nó.
Hãy nhìn tâm chỉ là tâm, không phải là “tâm của tôi”. Dù nó là “tốt” hay
“xấu”, hãy nhìn nó chỉ là vô ngã (anattā); thấy rằng nó sanh khởi bởi vì
có đủ điều kiện, nhân duyên cho nó sanh khởi, chứ không phải là tự thân nó sanh
khởi. Không có gì là một người nào, là tôi, là của tôi ở đó cả. Tìm hiểu phiền
não (kilesa) rất thú vị.
Mong cầu là nguồn gốc của thất vọng. Ngay tự thân mong cầu thôi cũng đủ làm
cho tâm bất an rồi.
Có đôi khi tôi nghĩ, mong ước một cuộc sống lý tưởng: tĩnh lặng, bình an và
hạnh phúc cũng khiến cho con người ta thậm chí còn thất vọng, bất mãn (về hiện
tại) hơn nữa.
Những người sống một cuộc sống độc cư, lánh xa thế gian có thể có được một
cái tâm quân bình, buông xả (nhưng
tôi thì không như thế). Nhưng khi bạn tiếp xúc với người đời (với những con
người ích kỷ, không biết điều, những người chỉ quen lợi dụng bạn), bạn sẽ thấy
rất khó để giữ được cái tâm xả ấy.
Sự tĩnh lặng của nội tâm là một điều kiện cần thiết để phát triển tuệ giác
thâm sâu; nó trái ngược với sự xáo động, bất an. Không có gì sai khi có được sự
tĩnh lặng cả, nhưng hãy cảnh giác với sự dính mắc vào tĩnh lặng – sự dính mắc
ấy rất nguy hiểm. Tĩnh lặng làm cho tâm sáng suốt. Nó làm tươi mới tâm mình và giúp
tăng cường chánh niệm.
Yoniso manasikāra (như lý tác ý, định hướng tâm một
cách đúng đắn) là cận duyên (nguyên nhân gần, nguyên nhân trực tiếp) của các
trạng thái tâm thiện (kusala). Không có như lý tác ý sẽ không thể có tâm
thiện. Phi như lý tác ý (ayoniso manasikāra) hay định hướng tâm sai lầm
là nguyên nhân của các trạng thái tâm bất thiện (akusala).
Tất cả chúng ta đều làm một công việc là tự ám thị mình mỗi ngày, nhưng hầu
hết chúng ta không ý thức được điều đó. Một số sự ám thị đó là tích cực và tất
nhiên một số là tiêu cực. Tự ám thị rất gần với thái độ.
Chẳng có gì thay thế cho chánh niệm được. Bạn nói: “Tôi biết những vấn đề
khó khăn của mình sẽ biến mất nếu tôi tiếp tục thực hành chánh niệm”. Chúng ta
thường nói “nếu, nếu, nếu…”. Cái gì khiến chúng ta cứ phải nói như thế? Tại sao
lại “nếu”? Dường như chúng ta không muốn khó khăn của mình đi mất. Hoặc giả,
chúng ta không thực sự tin tưởng là mình làm được điều đó, vì vậy tốt nhất là
nói “nếu”. Điều đó giữ niềm hy vọng cho chúng ta. Nếu chúng ta thực sự làm điều
nó mà không thành công, khi đó chúng ta không còn chút hy vọng nào nữa. Vì vậy,
tốt hơn cả là chẳng dấn thân vào đó làm gì. Chỉ hy vọng thôi. Nếu bạn không
thực sự làm, thì lúc nào bạn cũng có thể nói “tôi có thể làm được”. Đó là cách
cái tâm đang lừa đảo mình. Để tự bảo vệ mình khỏi nỗi thất vọng, nó không bao
giờ dám làm bất cứ việc gì hết mình cả.
Tại sao chúng ta phải cố để thuyết phục người khác tin mình?
Khi tôi trở về từ Mỹ, nhiều người hỏi tôi ở Mỹ có nhiều người theo đạo Phật
không. Và họ rất mừng khi thấy người phương Tây cũng thực hành theo lời dạy của
Đức Phật. Nhưng chính họ thì lại chẳng thực hành. Tại sao họ lại vui mừng khi
thấy người phương Tây theo đạo Phật?
Tại sao chúng ta vui mừng khi thấy người khác cũng tin vào điều mình đang
tin?
Những quan điểm được nhiều người tin theo đem lại cho người ta cảm giác an
toàn.
Con người thật tức cười.
Chúng ta không biết chắc chắn về cái gì cả.
Nhưng chúng ta biết rằng mình đau khổ.
Nếu tâm không rối mờ, chúng ta sẽ tìm được câu trả lời.
Niềm hãnh diện tìm ra câu trả lời lại khiến mình mù quáng.
Hãy làm bất cứ việc gì bạn muốn làm. Hành thiền, xuất gia, sám hối. Bạn
biết việc gì là tốt nhất đối với mình. Nếu tôi có thể cho bạn một lời khuyên,
tôi sẽ khuyên: hãy chánh niệm.
Hãy thực hành thiền thư giãn. Rất đơn giản. Ngồi thật thoải mái, hoặc nếu
có thể thì nên nằm xuống. Thư giãn toàn thân bắt đầu từ đỉnh đầu trở xuống, rà
soát, phát hiện và thư giãn tất cả những phần căng cứng, nhức mỏi trên cơ thể.
Khi bạn ý thức nhiều hơn về các cảm giác khó chịu, bạn sẽ học được cách thư
giãn các cơ, và sự căng thẳng, đau nhức sẽ dần dần tan biến. Thư giãn tất cả
các bộ phận trên cơ thể, không để sót một chỗ nào. Thậm chí cả bên trong nữa
(các cơ quan nội tạng). Thư giãn một cách thật kiên nhẫn và chậm rãi, thư giãn
đến tận các ngón chân và ngón tay, phía trước và phía sau cơ thể. Thư giãn một
lần toàn bộ cơ thể và làm lại một lần nữa.
Trước khi xuất gia trở thành một nhà sư, tôi đã đọc rất nhiều sách thiền.
Tôi nghĩ thế là mình đã hiểu hết về thiền. Sau khi xuất gia được một năm, tôi
nghĩ: chỉ đến bây giờ mình mới hiểu thiền là gì, và sau khi xuất gia được ba
năm tôi nghĩ: chỉ đến bây giờ tôi mới thực sự hiểu được thiền
là gì. Mọi việc diễn ra như vậy đấy.
Khi còn trẻ tôi đọc rất nhiều sách viết về thám hiểm, và tôi rất thất vọng
khi nghĩ rằng chẳng còn chỗ nào chưa được con người khám phá nữa cả. Kể từ khi
tôi phát hiện ra thế giới nội tâm, tôi biết đây là một thế giới hoang sơ và đã
từng có nhiều người khám phá. Rất nhiều người đến với thế giới này mà không có
được phương tiện thích hợp và rồi bị lạc lối. Tôi có được một phương tiện tốt
nhất – chánh niệm.
Nhiều lúc tôi cảm thấy rất ngạc nhiên khi thấy có nhiều người có tín tâm mà
chẳng hề biết ngay cả những điều đơn giản nhất về chánh niệm. Một số người nói
rằng đây là lần đầu tiên họ nghe nói rằng người ta có thể thực hành chánh niệm
ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào, dù đang làm bất cứ việc gì. Nhiều người nghĩ
rằng chỉ nên thực hành chánh niệm khi ngồi thiền mà thôi, và không nên làm bất
cứ việc gì khác khi đang hành thiền. Họ chỉ dành thời gian riêng biệt đó để
hành thiền, họ không sẵn lòng quan sát tâm mình trong khi giao tiếp với mọi
người.
Trong cuộc sống hàng ngày, nhiều người dành rất nhiều thời gian để ngồi
thiền nhưng lại chẳng nhìn ra tham, sân, lòng tham muốn, sự tức giận, thói ngã
mạn, ghen tỵ… trong tâm mình. Nhiều thiền sinh không hề nhận thức được tầm quan
trọng của việc quan sát một cách trung thực những phiền não khởi sanh trong
cuộc sống hàng ngày, trong quan hệ giao tiếp, trong khi chuyện trò với người
khác. Tôi nhấn mạnh rất nhiều đến việc thực hành chánh niệm trong lúc nói
chuyện – bởi vì đó là lúc mọi người ít chánh niệm nhất.
Hầu hết các thiền sinh đều có thời gian biểu ngồi thiền mỗi ngày. Họ ngồi
thiền nghiêm chỉnh lắm, họ chọn một vài đề mục để quan sát như hơi thở hay sự
phồng xẹp của thành bụng, hay sự xúc chạm hoặc cảm giác. Họ lựa chọn đề mục để
quan sát (điều đó tốt trong giai đoạn đầu tu tập). Lựa chọn nghĩa là loại trừ
(họ loại trừ một số đề mục ra, không quan sát chúng), chánh niệm nên phải bao
hàm (toàn bộ các kinh nghiệm) chứ không loại trừ. Theo cách hiểu của tôi, trước
tiên mọi người cần phải chánh niệm về các phiền não trong mình đã.
Bhāsite sampajānakārī hoti. (Người
thực hành chánh niệm nói năng trong chánh niệm). Nói chuyện là một phần tương
đối lớn trong cuộc sống của chúng ta. Tập chánh niệm trong khi nói chuyện vô
cùng lợi ích. Nó không dễ nhưng không phải là không làm được. Hãy chánh niệm về
những chuyện bạn muốn nói, và trong khi nói chuyện hãy chánh niệm biết môi mình
đang mấp máy ra sao, âm điệu và âm lượng to nhỏ của giọng nói như thế nào, hay
bất cứ những gì có liên quan.
Những đau khổ lớn nhất của con người là xuất phát từ những mối quan hệ. Vì vậy, điều rất quan trọng là phải chánh niệm trong khi giao tiếp với
mọi người. Chúng ta phải ý thức được thái độ của mình đối với những
người mình đang quan hệ.
Quan sát thái độ của mình đối với tất cả
mọi thứ là điều vô cùng quan trọng.
Nếu không có thái độ đúng đắn, chúng ta sẽ tạo ra vô số rắc rối. Những
thiền sinh không nhìn thấy rõ thái độ của mình thường tự gây ra rất nhiều khó
khăn.
Thực hành chánh niệm là điều tốt đẹp nhất
tôi làm được cho chính mình.
Nếu bạn thực hành chánh niệm vì lợi ích của
chánh niệm bạn sẽ hiểu rõ hơn về chánh niệm.
Con người luôn ôm ấp những ước muốn và khao khát đầy mâu thuẫn. Hầu hết tất
cả mọi người không hề biết họ thực sự muốn gì. Tâm họ thay đổi liên tục. Không
nhất quán là quy luật. Tâm họ đầy những cảm xúc trái ngược.
Bóng cây đổ dài. Mặt trời đang xuống dần. Làn gió nhẹ buổi chiều thật mát
mẻ. Ở đây tĩnh lặng và bình yên quá. Cứ như ở thế giới Phạm thiên. Đơn giản,
biết đủ, thu thúc (samvara), chánh niệm, chu đáo, nhẫn nại, từ ái, bi
mẫn, hiểu biết thân tâm mình, những điều đó làm cho cuộc sống ở đây thật vô
cùng bình yên!
Tôi chưa bao giờ cảm thấy buồn chán cả. Tôi sống bình yên và hy vọng được
chết bình yên ở trong rừng. Tôi quan sát tâm mình. Mọi thứ đến và đi. Chẳng có
gì là tồn tại mãi cả. Ngay cả những điều tồi tệ nhất cũng chẳng ở lại lâu với
mình. Vì vậy, khi nó đến, tôi biết rằng khoảnh khắc sau nó sẽ đi mất. Tôi không
phải làm điều gì để nó phải biến mất cả. Tôi muốn nhìn nó như nhìn một cái gì
đó rất thú vị qua kính hiển vi. Nhưng mỗi khi tôi tập trung tâm vào bất cứ cái
gì đang sanh khởi, tôi chỉ thấy được một thoáng qua của nó. Rồi nó đi mất. Tôi
muốn nói: hãy ở lại, để tao nhìn mi kỹ hơn. Thực ra, chúng ta đều là người quen
cũ cả mà. Nhưng chúng nó rất sợ bị người khác xăm soi. Vì vậy chánh niệm trở
thành người bạn thường xuyên của tôi. Tôi nhìn cả tâm chánh niệm ấy nữa. Tôi
chánh niệm biết rằng tôi đang có chánh niệm. Chánh niệm về tâm chánh niệm.
Điều quan trọng nhất là chánh niệm. Chánh niệm đến mức suy nghĩ dừng lại và
bạn thấy rõ được bản chất thực sự của cuộc sống là gì, những vấn đề khó khăn từ
đâu mà đến.
Tất cả mọi khó khăn đến từ
chính trong tâm bạn.
Bạn sẽ không thể hiểu được khi tôi nói “Tất cả mọi khó khăn đến từ chính
trong tâm bạn” đâu. Chỉ khi đạt đến một trình độ nhất định, hiểu tâm mình một
cách thực sự sâu sắc, khi đó bạn mới hiểu được điều đó.
Tôi sống một cách bình an bởi vì tôi hiểu tâm mình thật sâu sắc. Trí tuệ có
thể vượt qua được nghiệp (kamma).
Một điểm nữa về chánh niệm mà tôi đã nhận ra từ lâu trước kia, đó là bạn
phải làm điều đó một cách liên tục. Giữ giới cũng phải như vậy, dù là đối với
một vị tỳ kheo hay đối với một người cư sỹ. Nếu bạn nói rằng tôi sẽ
giữ giới và chánh niệm rất cẩn thận trong thời gian dự khóa thiền tích cực,
nhưng khi ra khỏi thiền viện thì thôi, tức là bạn đã không sống thật lòng với
Pháp. (Điều đó giống như đã có vợ những vẫn đi ngoại tình- một ví dụ thật tức
cười đúng không?). Khi đó mối quan hệ ấy thật là giả dối. Bạn sẽ không thể có
được niềm vui đích thực. Thậm chí bạn cũng chẳng thể nghiêm túc được. Vâng, đó
là cách tôi nhìn sự việc như thế đấy. Chúng ta phải luôn luôn sống thực (chung
thủy) với những gì mình đang làm (giữ giới, chánh niệm). Nếu không bạn sẽ không
thể trân trọng những việc bạn đang làm, và cũng không tôn trọng chính bản thân
mình. Và không có sự trân trọng đó, những gì bạn làm không thể hoàn mãn, không
có kết quả và không thể có niềm vui.
Bản thân chánh niệm không có động cơ hay thái độ nào cả. Nó chỉ đơn thuần
nhìn mọi việc một cách rõ ràng, không đánh giá phán xét, không mong muốn mọi
việc phải khác đi. Thực hành chánh niệm để nhìn thấy cái hiện tại đang
là. Chỉ thế thôi.
Chúng ta không ý thức được một phần lớn cái tiến trình mà chúng ta gọi là
tâm của mình, và chúng ta đã quên một phần lớn những kinh nghiệm, cảm xúc và
những quyết định của mình trong quá khứ (cả trong những kiếp trước nữa). Tuy
nhiên, tất cả những điều đó vẫn có ảnh hưởng rất lớn đến cách chúng ta cảm nhận
và suy nghĩ hiện tại, và cái phần chúng ta không ý thức rõ hay đã quên đi đó
vẫn là một phần của tâm chúng ta, mà tôi gọi đó là vô thức – một từ tạm dùng
cho dễ hiểu.
Tôi ngày càng ý thức rõ hơn về những phần tối trong tâm mình, khi tôi càng
chấp nhận nó thì nó càng lộ diện ra và tôi ngày càng cảm thấy nhẹ nhàng, thoải
mái hơn.
Chúng ta dùng ngôn từ để giao tiếp và diễn đạt ý tưởng, nhưng ngay cả ý
nghĩa ngôn từ thể hiện cũng rất mơ hồ.
Rất nhiều thứ đã mất đi tầm quan trọng đối với tôi. Tôi không còn quan tâm
đến rất nhiều thứ trên đời nữa. Điều đó đem đến cho tôi nhiều tự do hơn để nhìn
rõ những gì đang diễn ra trong tâm mình, trong cuộc đời mình và thấy rõ tâm
mình thực sự đang làm gì. Thiền tập khiến tôi vô cùng say mê và hứng thú sâu
sắc.
Rất nhiều đau khổ của chúng ta là do chính chúng ta tự tạo nên. Tâm là một
nhà ảo thuật vĩ đại: nó tạo nên đau khổ và nó đau khổ; nó tạo ra thú vui và nó
đam mê hưởng thụ; nó bị cắn bởi con rắn do chính nó tạo ra và vật vã đau đớn bởi
nọc độc của con rắn ấy. Giá như nó biết điều đó và không tạo ra nhiều đau khổ
đến như vậy, thì có đến 90% nỗi khổ tâm của con người không còn nữa.
Tôi đến ở nơi đây để dành thêm thời gian đi sâu tìm hiểu tâm mình.
Tôi muốn thân quen hơn nữa với chính tâm mình – để thấy tất cả những động cơ
trái ngược nhau, những ham muốn, khao khát, những lý tưởng trong tâm mình và
trong trái tim mình. Tôi muốn biết rõ mọi ngóc ngách trong tâm mình, tất cả từ
đám nhện độc, bọ cạp và rắn độc nhung nhúc trong đó, đến những loài sư tử và
đại bàng… Không phải là tôi muốn đuổi chúng đi. Tôi chỉ muốn trở thành một
người bạn tốt của tâm mình, một người bạn tử tế và hiểu biết nó. Trừ phi tôi
biết chúng thật rõ, nếu không chúng sẽ không để cho tôi ngủ yên. Tôi muốn xác
định thật rõ ràng cách quan hệ với mọi người như thế nào cho đúng.
Tôi không thích mọi người xếp tôi vào một mẫu người nhất định nào đó mà
thực sự tôi không phải là như thế. Nhưng đó là điều không thể tránh khỏi. Tất
cả mọi người trên thế gian này luôn luôn hiểu sai về người khác. Và
tôi sẽ vẫn thất vọng nếu họ hiểu đúng về tôi.
Nơi bạn sống và người bạn thường quan hệ là rất quan trọng. Một số nơi bạn
ở hay làm việc, một số người bạn gặp thường làm cho tâm bạn phiền não, và cứ
phải ở trong tình trạng phiền não suốt ngày như thế sẽ làm hỏng cả tâm bạn.
Chúng ta bị ảnh hưởng một cách rất vi tế bởi những người xung quanh mình.
Tôi ngày càng trở nên xa lánh và tách biệt khỏi con người và mọi hình thức
tổ chức. Con người ta thường sử dụng người khác để tự đề cao chính mình
dưới
cái vỏ bọc mỹ miều là giúp đỡ người khác
Bất cứ ai chiến đấu chống lại quỷ dữ cần ghi nhớ: chớ để chính mình cũng bị
biến thành quỷ dữ trong cuộc chiến ấy.
NIETZSCHE
Tôi đã quan sát tâm mình trong rất nhiều năm nay. Vì vậy tôi hiểu rất rõ
tâm mình. Tôi biết nó ngu ngốc, si mê và lưu manh, xảo trá đến mức nào, nhưng
bởi vì tôi có chánh niệm luôn biết nó, nên nó không thể nào lôi tôi đi được.
Tôi đã quên hầu hết những điều học được trong sách vở. Tôi không muốn nhớ
quá nhiều thứ trong đầu. Nhưng tôi biết rất nhiều về bản thân mình, về tâm của
mình, về các trạng thái tâm, về tất cả mọi điều xấu xa, ngu ngốc của bản thân
tôi. Tôi được người ta dạy dỗ rằng những điều ấy là xấu xa, đáng hổ thẹn, rằng
tôi phải cảm thấy tội lỗi vì có những suy nghĩ như thế. Tôi không thèm tin họ.
Tôi biết rằng tất cả chúng ta đều có những suy nghĩ như thế cả, nhưng hầu hết
chúng ta đều phủ nhận điều đó. Tôi không đi kể cho mọi người nghe hết mọi thứ
về bản thân tôi. Tôi chấp nhận (không phản kháng lại) tất cả mọi thứ trong bản
thân mình, cả tốt lẫn xấu.
Chúng ta sẽ không thay đổi được bất cứ điều gì nếu chúng ta không chấp nhận
nó.
Lên án không giúp cho con người giải thoát, nó chỉ đè nén.
Một bác sỹ muốn chữa bệnh cứu người, anh ta phải chấp nhận tình trạng thực
tế của bệnh nhân.
Và anh ta chỉ có thể làm được điều đó khi chính anh ta đã thấy và chấp nhận
được bản thân mìnhnhư mình đang là.
Có lẽ điều này nghe quá đơn giản, nhưng những điều đơn giản lại luôn luôn
là những điều khó làm nhất.
Trong cuộc đời thực, để trở thành đơn giản lại là cả một một nghệ thuật vĩ
đại, và sự chấp nhận chính bản thân mình là nền tảng căn bản của đạo đức và là phép
thử đối với toàn bộ quan điểm sống của con người.
CARL
JUNG
Vấn đề tâm lý = Vấn đề đạo đức.
Hiểu biết về bản thân mình và chấp nhận chính mình đem lại cho tôi sự bình
an và thanh thản trong tâm. Tôi biết bằng lòng với chính mình. Tôi sẽ tiếp tục
nhìn tâm mình mà không đánh giá phán xét nó, không chối bỏ, không chống đối hay
phủ nhận nó. Có một người tôi muốn thấu hiểu thật tường tận, đó là chính bản
thân tôi.
Tôi thích để tâm mình trống rỗng, trong sáng và nhẹ nhàng, không nặng nề
bởi việc học hành, nhồi nhét kiến thức. Tôi chẳng có gì để chứng tỏ, chẳng có
gì để bảo vệ và cũng chẳng có gì để truyền bá cả.
Khi còn trẻ tôi đã từng làm nhiều việc ngu ngốc (đến bây giờ, đôi khi
tôi vẫn còn làm những việc ngu ngốc). Có nhiều chuyện không thể nói ra được,
nhưng tôi cũng không cố tình quên nó đi. Ký ức về những việc đã làm vẫn còn
khởi lên trong tâm, nhưng tôi không chống cự lại nó. Thậm chí tôi cũng không
cảm thấy thất vọng và buồn bực về điều đó, dù rằng tôi vẫn cảm nhận được nỗi
đau của nó.
Tất cả mọi người đều phạm sai lầm. Tôi đã học hiểu được rất nhiều về những
gì diễn ra trong tâm khi một người làm một việc sai lầm – tâm trạng giày vò vì
cảm giác tội lỗi như thế nào; muốn quên đi quá khứ ra sao (thật là sai lầm khi
làm điều đó); và nhất là tâm tạo nên mặc cảm (sai lầm nữa) mình không xứng đáng
được hưởng những điều tốt đẹp trên đời (không xứng đáng được nhận tình thương,
sự kính trọng, đức tin, danh dự hay tuệ giác…). Tôi tự tha thứ cho chính mình.
Trong hoàn cảnh như vậy, làm sao tôi tránh không làm những việc ấy được cơ chứ?
Nhưng có cần phải mang theo cảm giác tội lỗi như thế suốt cả cuộc đời không?
Không! Tôi đã học được một bài học từ những sai lầm của mình và sẽ cố gắng để
không lặp lại những sai lầm ấy nữa. Tôi có thể làm được gì hơn thế nữa? Chẳng
làm được gì hơn cả.
Chấp nhận sự thật sẽ giải thoát tâm
mình.
Tôi không phải là người hoàn toàn trí tuệ trong mọi lúc; đôi lúc tôi cũng
rất ngu ngốc. Chánh niệm về tâm mình là chiếc la bàn định hướng cho
tôi. Mỗi khi phạm sai lầm, chánh niệm về tâm luôn luôn nói với tôi rằng tôi
đang gặp rắc rối.
Không thể có sự phát triển thật sự về mặt
tâm linh nếu không hiểu biết một cách sâu sắc về
chính bản thân mình như chính mình đang là.
Sự an lạc và tĩnh lặng tạm thời mặc dù có tác dụng khích lệ tâm mình rất
nhiều, nhưng chỉ mỗi thế thôi thì không thể mang lại sự chuyển hoá cho tâm
mình.
Đúng là tôi có thể cứ tiếp tục thất vọng và buồn bực, trách cứ người ta
chấp thủ, không có cái nhìn thoáng hơn, nhưng tôi không muốn làm điều đó nữa.
Tôi không thể thay đổi họ; tôi không chịu trách nhiệm về họ; tôi sẽ
giúp họ nếu có thể. Hầu hết mọi người không hay biết những gì đang diễn ra
trong tâm mình và trong cuộc đời mình. Họ cứ nghĩ rằng họ biết, nhưng thực ra
họ chẳng biết cái gì hết. Hầu hết mọi người đều bị điều kiện hóa (bị
định khuôn) rất nặng nề. Bạn cần phải có chánh niệm thật mạnh mẽ và sự trung
thực để vượt qua được tình trạng định khuôn ấy. Bạn bị định khuôn và tôi cũng
bị định khuôn. Chúng ta có biết mình đang bị định khuôn không? Hầu hết mọi suy
nghĩ và phản ứng của chúng ta là những phản ứng máy móc từ sự khuôn định ấy. Vì
vậy, trước hết chúng ta phải tự làm việc với chính mình. Khi đã thoát khỏi tình
trạng bị định khuôn đó, lúc đó tôi nghĩ chúng ta mới có thể làm được điều gì đó
để giúp người khác thoát ra.
“…trở thành một con người không còn ích kỷ, không còn ham muốn, sống vị
tha, trải rộng tình thương vô điều kiện tới tất cả mọi người. Biết đồng cảm,
yêu thương, quan tâm tới người khác, có trái tim từ bi nồng ấm và chia sẻ. Một
con người hào hiệp, rộng rãi, can đảm và giúp ích cho người.”
Khi tâm chúng ta còn thất vọng và buồn bực, chúng ta sẽ làm người khác tổn
thương dưới cái mác giúp đỡ người.
Tự lừa dối chính mình. Đôi khi nó quá hoàn hảo đến nỗi chính mình cũng
không ý thức được điều đó. Bản năng tự vệ khiến cho chúng ta mù quáng trước
khuyết điểm của chính mình (tự lừa dối). Chúng ta tự lừa dối rằng mình đang
hạnh phúc. Đôi khi thật là đau đớn khi nhìn ra những khuyết điểm của chính
mình.
Trung thực là điều khó hơn tôi tưởng rất nhiều. Chúng ta bị mắc kẹt bởi
những lời nói dối của chính mình. Nói về sự trung thực thì rất dễ nhưng để thực
hành nó thì khó biết bao. Nếu tôi thực sự trung thực, chắc hẳn là tôi sẽ vô
vùng mãn nguyện.
Đừng chất nặng những chuyện cũ
trong quá khứ và những lo lắng cho tương lai
ở trong tâm mình. Hãy sống mỗi và mọi
phút giây một cách chánh niệm.
Tương lai sẽ tự nó lo cho chính nó.
Nhờ quá trình học hỏi (từ sự quan sát thân tâm mình với chánh niệm), chúng
ta sẽ trưởng thành lên từ những dính mắc, khát vọng, những ước mơ và hy vọng
của mình.
Sự vỡ mộng ban đầu bao giờ cũng đau đớn
bởi vì nó đi cùng với sự thất vọng, nhưng sau đó
sẽ giải phóng tâm mình. Nó làm cho
con người ta trở nên thực tế hơn.
Cuộc đời không phải là câu chuyện cổ tích. Trong cuộc đời thực chẳng bao
giờ có chuyện “thế rồi họ mãi mãi sống bên nhau hạnh phúc” cả đâu.
Để sống thực, chúng ta phải thay đổi. Giống như con rắn phải lột lớp da cũ
đã quá chật, chúng ta phải rũ bỏ những giấc mơ mình ấp ủ. Thay vì cứ kêu ca nó
quá chật không thở được, chúng ta phải lột bỏ lớp da cũ để lớp da mới mọc lên,
cho mình dễ thở. Nhưng phải nhớ rằng, khi đến lúc cần phải lột bỏ lớp da ấy
nữa, chúng ta đừng miễn cưỡng. Lột lớp da cũ bao giờ cũng đau đớn. Bạn trở nên
rất dễ bị tổn thương và quá nhạy cảm bởi vì lớp da mới chưa đủ dày để chịu đựng
sự tiếp xúc với môi trường.
Tôi ngày càng trở nên độc lập hơn về mặt tâm lý. Tôi không hề cảm thấy cô
đơn.
“Làm thế nào để chánh niệm, quan sát được những trạng thái tâm nằm sâu bên
dưới?”. Bạn có thể cảm nhận được cảm giác về nó. Hãy chánh niệm về các cảm giác và
kiên nhẫn đợi cho những thứ nằm bên dưới nổi lên trên bề mặt. Đừng sử dụng sức
mạnh. Hãy để tâm mềm mại, nhẹ nhàng.
Hạnh phúc, an lạc là có một nội tâm tĩnh lặng, và hoàn toàn chánh niệm,
chánh niệm đến mức không có một suy nghĩ nào, không có cảm giác về một cái tôi
nào cả. Sự an lạc này đến khi tất cả mọi suy nghĩ về quá khứ hay tương lai
không tồn tại – không có cái “tôi”, không ngày hôm qua, không ngày mai, không
dự định, kế hoạch...
Trong khoảnh khắc phi thời gian ấy,
không có một cái “tôi” nào đang chứng nghiệm
sự an lạc. Chỉ có mỗi sự an lạc đang ở đó.
Hạnh phúc đích thực không cần phải có lý do.
Khi bạn thực sự hạnh phúc (không còn cảm giác của cái tôi), bạn không thể
nói “tôi hạnh phúc bởi vì…” Nếu bạn cố gắng để được hạnh phúc, chắc chắn là bạn
sẽ thất bại.
Hạnh phúc đích thực đến không cần mời gọi.
Bạn có thể quan sát tâm mình liên tục đến mức tất cả mọi suy nghĩ đều dừng
lại không? Tâm bạn an lạc khi không còn suy nghĩ mà chỉ còn thuần chánh niệm về
những gì đang có mặt. Suy nghĩ không thể làm cho tâm bạn bình an.
Có những khó khăn không thể giải quyết được,
và cách tốt nhất để xử lý những khó khăn đó
là không suy nghĩ về nó nữa.
Miên man suy nghĩ tới lui chỉ làm cho bạn rã rời, mệt mỏi. Những con
người tri thức như chúng ta suy nghĩ quá nhiều. Chúng ta phải thừa nhận điều
đó. Chúng ta phải tự khép mình vào kỷ luật, không để mình đắm chìm quá mức
trong suy nghĩ như vậy.
Đọc sách, nói chuyện, và mọi sự phân tán khác làm cho con người quên lãng.
Người nào làm quá nhiều những việc như vậy thường cảm thấy rất trống rỗng, tháo
động, bất an và chán chường khi họ ở không, hoặc tâm họ trở nên đờ đẫn, mụ mị
khi thiếu vắng những tác nhân kích thích như vậy.
Mỗi một suy nghĩ đều làm cho tâm mệt mỏi, tán loạn. Suy nghĩ là một gánh
nặng, là một sự tra tấn. Bạn cứ cho rằng bạn sẽ tìm ra cách làm cho mình hạnh
phúc bằng cách nghĩ về nó. Bạn đã ngốc nghếch như thế bao lâu rồi? Và bạn sẽ
còn tiếp tục ngốc như thế bao lâu nữa? Suy nghĩ ư, quá đủ rồi! Hãy chỉ nhìn
những gì đang diễn ra mà đừng suy nghĩ.
Rất nhiều thứ đã mất đi tầm quan trọng đối với tôi. Tôi không còn quan tâm
đến rất nhiều thứ trên đời nữa. Điều đó đem đến cho tôi nhiều tự do hơn để nhìn
rõ những gì đang diễn ra trong tâm mình, trong cuộc đời mình
Một cái tâm suy nghĩ thì không thấy;
suy nghĩ là mù quáng.
Một cái tâm thấy thì không suy nghĩ;
thấy loại trừ suy nghĩ.
Thực sự thấy không phải là niệm thầm
để ghi nhận. Càng suy nghĩ bạn sẽ càng
loanh quanh luẩn quẩn.
Nếu bạn nhìn thấy suy nghĩ thật rõ ràng,
nó sẽ dừng lại.
Tôi không suy nghĩ. Các suy nghĩ đang tự nó diễn ra. Dường như chúng đang
tự biên tự diễn.
Đừng suy nghĩ quá nhiều và
đừng làm quá nhiều.
Để hành thiền tốt chúng ta cần 6 đức tính:
không ham ăn; không mê ngủ; không nói nhiều;
ít bận rộn; vui thích độc cư; thu thúc lục căn[33].
Dạo này thiền tập của bạn ra sao? Khi bạn dừng lại mọi suy nghĩ, thậm chí
dừng cả niệm thầm, khi tâm bạn hoàn toàn tĩnh lặng, chánh niệm và tỉnh giác,
khi đó bạn sẽ thấy được bản chất vô thường, giống như một giấc mơ của tất cả
mọi thứ trên đời.
Trong cái hộp có mấy tờ báo cũ. Tôi lấy chúng ra đọc và tôi quan sát tâm
mình. Phân tán! Giải trí. Giết thời gian. Vô ích.
Con người say mê giải trí và thu nhặt thông tin, họ lái tâm mình ra khỏi
những vấn đề thực tế và quan trọng trong cuộc đời. Nghiên cứu tâm mình và cuộc
đời mình còn đáng làm hơn thế nhiều, nhưng hầu hết tất cả mọi người lại rất sợ
làm điều đó. Thay vào đó, họ chỉ muốn lãng quên chính mình. Họ chạy trốn chính
bản thân mình; họ không có đủ dũng cảm để đối diện với chính mình. Hoặc là họ
sợ, sợ rằng họ sẽ hóa điên nếu suy nghĩ quá nhiều về bản thân mình. Nhưng tôi
không nói rằng phải suy nghĩ về mình; tôi nói về việc quan sát chính mình. Đúng
thế, nếu suy nghĩ quá nhiều về mình, bạn sẽ điên khùng lên mất.
Con người ta luôn cảm thấy trống rỗng và vô ích. Để che đậy điều đó họ cứ
phải tìm cách làm cho mình thật bận rộn. Người ta cảm thấy mình quan trọng khi
họ bận rộn.
Ai có thể bảo bạn cần phải làm gì? Không phải tôi. Cũng chẳng phải một bậc
đạo sư hay một bác sỹ tâm lý nào. Bạn phải tự tìm ra cho chính mình. Tôi chỉ có
thể bảo bạn là: hãy chánh niệm và sống một cuộc sống đơn giản, việc mà tôi nghĩ
là bạn cũng đang làm bây giờ. Chúng ta không thể có tất cả mọi thứ. Chúng ta
phải quyết định lựa chọn những thứ mình cần và buông bỏ những thứ còn lại.
Càng ít ham muốn, càng nhẹ gánh nặng.
Tôi không còn nghi ngờ gì nữa, tham ái, dính mắc, dục vọng và lòng tham là
nguồn gốc của đau khổ (dukkha), và cách duy nhất để thoát ra khỏi chúng
là hãy nhìn chúng cho thật kỹ. Đè nén hoặc phóng túng, buông lung đều chẳng có
mấy giá trị. Thấu hiểu chúng thật sâu sắc mới thực sự làm nên chuyện.
Dù có diễn giải cách nào chăng nữa cũng không thể làm cho bạn hiểu được thế
nào là tham, trừ phi bạn nhìn nó khi nó đang diễn ra trong tâm bạn.
Nó giống như một tên gián điệp, có rất nhiều bộ mặt khác nhau và vô cùng xảo
trá. Bạn đã từng bị tâm tham lừa đảo bao nhiêu lâu rồi.
Tham ái (tanhā), ngã mạn (māna), tà kiến (ditthi) đều
là những pháp chướng ngại (papañca: ảo tưởng, chướng ngại đối với sự phát
triển tâm linh). Chúng là nguyên nhân của rất nhiều hành động vô ích,
nguyên nhân của sanh tử luân hồi (samsāra), và là nguyên nhân khiến
chúng ta trì hoãn không chịu thực hành Pháp để giải thoát cho chính mình. Những
pháp chướng ngại đó (papañca) làm nhân rộng các diễn trình của thân và
tâm, khiến cho con người chúng ta luôn luôn bận rộn và phân tán.
Tầm (vitakka) là sự hướng tâm đến đề mục, hay là việc tâm nhận biết
đề mục lúc ban đầu, còn Tứ (vicāra) là đặt tâm, giữ tâm trên đề mục ấy
một cách ổn định, liên tục. Tầm làm việc đồng thời với Tứ trong giai đoạn đầu
thiền tập, bởi vì lúc đầu tâm rất dễ trượt khỏi đề mục thiền mình đang quan
sát. Cần phải đưa tâm về lại với đề mục nhiều lần và giữ nó tại đấy. Sau một thời
gian thực hành, tâm sẽ không còn dễ bị trượt đi như lúc đầu nữa nhưng vẫn cần
phải cố gắng để giữ nó liên tục trên đề mục. Khi đã thực hành nhiều hơn nữa,
tâm sẽ đậu lại trên đề mục. Cả Tầm và Tứ đều là những tâm sở (cetasika).
Tôi mới đọc xong bài viết THIỀN TẬP, MỘT CÁCH SỐNG của Vimala Thakar[34].
Sau đây là một số ý tưởng trong đó mà tôi rất thích:
“…Trừ phi từ sâu thẳm bên trong có sự say mê tìm kiếm, tự mình khám phá,
không có điều đó con người ta sẽ không được trang bị đầy đủ để sống thiền.
Thiền là cả một cách sống, chứ không phải là một phần hay một công việc rời
rạc, manh mún… cuộc sống ấy không phải là cuộc sống phương Tây cũng chẳng phải
Á đông… Đối với một người khám phá đích thực, họ không có sự phấn khích, mà ở
đó là một chiều sâu mãnh liệt, không phải là thứ nhiệt tình lửa rơm, nông cạn…
Khi đó, trạng thái quan sát ấy (chánh niệm) sẽ lan tỏa toàn bộ thời gian thức
của bạn … Dù đó là lúc bạn đang nấu ăn, ở văn phòng làm việc, hay khi đang nói
chuyện, trạng thái tự quan sát sẽ có mặt trong tất cả mọi hoạt động bạn làm
trong khoảng thời gian thức… Khi trạng thái quan sát ấy được duy trì liên tục,
cường độ của nó sẽ mạnh dần lên, và từ sáng đến đêm bạn sẽ chánh niệm tỉnh giác
nhiều hơn nữa… Chẳng có ích lợi gì hết nếu bạn cứ chú tâm vào các sinh hoạt của
tâm mà bỏ qua những phần còn lại trong phong cách sống của mình. Thiền là một
cái gì đó liên quan mật thiết đến toàn bộ cuộc sống, toàn bộ con người bạn.
Hoặc là bạn sống trong nó hoặc là bạn sống bên ngoài nó. Nói cách khác, nó có
liên quan đến tất cả mọi thứ thuộc về tâm lý và thể chất… Vì vậy, từ một khu
vực nhỏ của sinh hoạt tâm, chúng ta đưa thiền đến cả một lĩnh vực rộng lớn của
tâm thức, nó liên quan đến cả cách bạn ngồi hay đứng, cử động hay nói năng
trong suốt cả ngày. Dù bạn muốn hay không, những trạng thái tâm nằm sâu bên
trong vẫn luôn thể hiện ra bên ngoài qua thái độ của bạn… Mối quan hệ qua lại
giữa thiền và toàn bộ cách sống này là một điều kiện đầu tiên cần phải có trên
con đường chuyển hóa hoàn toàn… Rất ít người ý thức được rằng nói năng quá
nhiều là một trong những trở ngại lớn nhất trong thiền… Cuộc sống là một thể
thống nhất và bạn không thể nào chia tách nó ra thành những phần manh mún …
Chánh niệm về những khoảng thất niệm, bản thân nó cũng là một sự quan sát.”
VIMALA THAKAR
Một cách tiếp cận cuộc sống manh mún, tách biệt hay chuyên biệt hóa sẽ
không có hiệu quả. Con người cần có sự hiểu biết toàn diện.
Trong cơ thể con người, mỗi một
bộ phận đều có liên quan đến các bộ phận khác.
Cuộc sống cũng như vậy: mỗi một phần của
cuộc sống đều có liên quan đến các phần khác.
Mọi mặt trong cuộc sống của bạn, từ kinh tế, cuộc sống tình dục, tình cảm,
tri thức, cuộc sống xã hội và tâm linh …tất cả đều có liên quan đến nhau. Bạn
không thể tách rời từng thứ ra một. Nếu bạn cố tình tách rời riêng biệt từng
phần, cuộc sống của bạn sẽ không bao giờ hoàn thiện, không bao giờ hài hòa.
Cuộc sống của bạn sẽ chứa đầy những xung đột, chia rẽ và bất lực.
Bạn đã bao giờ đọc trong kinh điển rằng
Đức Phật rửa chân, tay và bình bát của Ngài
hết sức cẩn thận chưa?
Tất cả mọi việc Ngài làm đều trở thành việc tâm linh.
Đó mới là tâm linh đích thực.
Nó có liên quan đến tất cả mọi mặt trong cuộc sống của bạn. Cách bạn nói
chuyện, ăn mặc, giao tiếp với mọi người, cách bạn ăn, ngủ, cười – tất cả mọi
việc bạn làm đều phản ánh nội tâm của bạn.
Làm thế nào để suy nghĩ một cách sâu sắc ư? Bạn cần phải có một cái tâm
tĩnh lặng và chánh niệm, một cái tâm không mệt mỏi hay trạo cử, tháo động mà
thấy biết một cách rõ ràng. Chính cái thấy biết rõ ràng đó mới thật là quan
trọng.
Tất cả chúng ta đều có những xung đột, cả ở bên trong nội tâm và bên ngoài
cuộc sống. Chỉ có chánh niệm rõ ràng và trí tuệ mới có khả năng giúp được bạn. Nissatta
– không chúng sanh, nijjiva – không sống!
Hãy cố gắng có nhiều suy nghĩ tích cực hơn. Suy nghĩ rất có sức mạnh. Và
hãy thu xếp mọi thứ quanh mình khiến cho cuộc sống của mình vui vẻ hơn. Đọc
những cuốn sách khiến cho tâm mình tĩnh lặng, bình yên và vui vẻ. Một số cuốn
sách đọc rất nặng nề. Và đừng mong đợi quá nhiều ở chính mình hay ở người khác.
Sau khi đã thực hành thiền chánh niệm được khoảng 2 năm, tôi mới đọc cuốn
sách của Thiền sư Mahasi về thiền chánh niệm và nhận ra rằng hầu hết những gì
tôi đã chứng nghiệm đều giống với những gì trong sách viết (trước sự
kinh ngạc và hoan hỷ của tôi). Tốt hơn hết là hãy thực hành một thời gian
đủ lâu rồi hãy đọc những sách mô tả các tầng tuệ giác trong thiềnVipassāna (nyanzin),
nhưng nên nhớ các tầng tuệ không phải là thứ để trang điểm và hãnh diện.
Bậc thánh Tu-đà-hoàn là người không còn vi phạm ngũ giới nữa. Đó là điều
Đức Phật thường xuyên nói.
Thế nào là một vị thành Tu-đà-hoàn (sotāpanna)? Ai có thể tuyên bố
người này, người kia đã đắc quả Tu-đà-hoàn? Có gì khác biệt giữa một vị thánh
Tu-đà-hoàn và một kẻ phàm phu? Khác nhau ở chỗ nào?
Bạn hãy tự trả lời. Chẳng cần phải nói với tôi.
Một số kiến thức cơ bản về giáo lý Đức Phật dạy là cần thiết. Không nghe
thuyết pháp từ những vị thầy giỏi sẽ khó có thể thực hành đúng đắn được. Kiến
thức Pháp học (pariyatti-kiến thức lý thuyết) đến đâu là đủ? Đó mới
là vấn đề. Pañcavaggi –nhóm 5 tỳ kheo đệ tử đầu tiên của Đức Phật
chỉ cần nghe bài kinh Vô ngã tướng (Dhammacakkapavattana Sutta) là đủ để đắc
đạo. Giới hạnh (sīla) là cần thiết, không có giới chúng ta sẽ không thể
sống bình an với chính mình được. Giới hỗ trợ thiền và ngược lại, thiền củng cố
giới.
“Thu thúc (samvara) sẽ làm giảm bớt
đau khổ (dukkha)”
Giữ giới (sīla) là một loại thu thúc và
chánh niệm (sati) cũng là thu thúc
Đến đất nước ấy bạn sẽ tìm thấy tất cả mọi loại người ở đó. Một số người
rất chân thành, một số hiểu Phật pháp, nhưng cũng có rất nhiều người hoàn toàn
lạc hướng và pha trộn đủ loại. Đạo Hindu, Thiền tông (Zen), Phật giáo Tây Tạng,
Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda), tâm lý học phương Tây. Có người nói ở
Mỹ cứ như một nồi lẩu thập cẩm. Trộn đủ mọi thứ vào với nhau rồi nấu chín lên.
Chẳng kiếm đâu ra cái gì hoàn hảo cả. Nếu không hiểu Pháp, bạn sẽ còn bị rối
tung hơn nữa. Hãy đến đó một lần và khám phá, bạn sẽ biết. Cuộc đời là một
sê-ri những sự thử nghiệm mà. Không ai có thể nói chắc là bạn sẽ
hạnh phúc ở đó hay không, nhưng có một điều chắc chắn là bạn sẽ thấy ở đó có
rất nhiều tự do, tự do sống theo cách của mình. Cách sống của người khác, ai có
thể nói được gì? Đó là cuộc sống của họ cơ mà. Tất cả mọi người, nhiều hay ít,
đều là những kẻ ngu (bāla).
Hiểu biết về Pháp và thực hành Pháp
là sự bảo hộ duy nhất.
Càng chánh niệm, con người càng trở nên
mềm dịu hơn. Con người trở nên nhạy cảm hơn:
nhạy cảm với nỗi đau; nhạy cảm với sự bất
hạnh; nhạy cảm với sự vô nghĩa của cuộc đời.
Con người rất dễ bất mãn với sự vô nghĩa
ấy.
Có thể bạn sẽ cảm thấy thất vọng, bởi vì thế giới này chỉ toàn những kẻ
thậm chí không ý thức được cái xấu xa, bất thiện trong tâm mình nữa. Và họ còn
mong đợi bạn phải hùa theo họ, chia sẻ cách nhìn cuộc đời ấu trĩ của họ. Có
nhiều lúc, bạn cảm thấy rất bất mãn khi thấy người ta không những không biết
trân trọng Pháp mà còn nhạo báng những người thực hành Pháp nữa. Đôi khi họ lại
còn cố tình tìm cách gây khó dễ. Những điều này thậm chí còn xảy ra ngay cả
trong giới chư tăng nữa. Vì vậy, hay hiểu cho họ và tha thứ cho họ. Khi có tâm
xả (upekkhā) bạn sẽ được an lạc.
Đôi khi, có người hỏi tôi tại sao họ rất dễ bị thất vọng trong quan hệ với
người khác. Câu trả lời là họ không thể chịu đựng được sự vô nghĩa thêm chút
nào nữa[35].
Họ không muốn lãng phí thời gian nói những câu chuyện phù phiếm, vô ích. Trước
kia, họ ham thích chuyện trò, tán gẫu, giết thời gian, luận bàn chính trị. Bây
giờ, họ không thể chịu đựng nổi khi phải nói quá nhiều những chuyện vô ích như
thế. Khi họ chánh niệm về những gì mình đang nói, họ cảm thấy lợm giọng khi
phải nói những điều vô nghĩa. Họ cảm thấy thất vọng, và cảm thấy bị thiếu tôn
trọng khi người đối diện thiếu tế nhị, không hiểu ngụ ý của mình. Thậm chí họ
có thể trở nên thô lỗ với người ấy. Vì vậy, bạn phải hết sức chánh niệm về
trạng thái tâm ấy. Hãy hiểu cho mọi người và tha thứ cho họ.
“Càng tu tập và càng chánh niệm hơn, tôi lại càng muốn chạy trốn khỏi cái
thế giới điên rồ này”. Nếu làm được điều đó thì hay biết mấy. Nhưng trước khi
bạn có thể thay đổi, hãy cố gắng bao dung và phát triển tâm xả (upekkhā),
nếu không bạn sẽ chỉ tự làm mình kiệt sức mà thôi.
“Thầy luôn cố gắng giúp đỡ chúng tôi, hiểu chúng tôi, nhưng thầy không cần
người khác hiểu mình sao?”. Vâng, đúng thế, tôi không cần người khác hiểu tôi,
nhưng nếu có thì tôi cũng rất cám ơn. Để hiểu một con người không phải là chuyện
dễ. Tôi không thực sự hiểu được người khác, nhưng tôi cố gắng hiểu. Để hiểu
được chính mình đã vất vả lắm rồi. Nếu không hiểu được chính mình, làm sao bạn
hiểu được người khác?
Và để hiểu được mình,
bạn phải sống thật với chính mình.
Để sống thật với chính mình
quả thực là điều rất khó.
Chúng ta luôn tự lừa dối mình trong mọi lúc.
Tôi là một kẻ đạo đức giả. Thật là đau lòng khi nhận ra điều đó.
Có thể bạn đã quên rằng tôi cũng là một con người, cũng có phần ngu ngốc
của riêng mình. Tôi không nghĩ là mình sẽ trở thành hoàn hảo, và tôi cũng không
muốn là người hoàn hảo. Tất cả những gì tôi hy vọng là nhìn thấy những gì đang
thực có trong mình. Thậm chí ngay cả khi thấy ra những lỗi lầm của mình, tôi
cũng không phấn khởi hay thất vọng. Tôi không vội vàng loại bỏ nó. Tôi không
thể loại bỏ được. Tôi chỉ có thể hy vọng nhìn rõ chúng như chúng đang là. Và
trong hầu hết mọi trường hợp, khi tôi nhìn thấy chúng, tôi thường xuyên tạc
chúng. Tâm mình rất giỏi xuyên tạc và bóp méo mọi việc. Tự lừa dối chính mình.
Tôi tự lừa dối bản thân mình hầu như trong mọi lúc. Tôi đang học nhìn sự lừa
dối ấy ngày một nhiều hơn. Tôi cũng không thất vọng lắm mỗi khi nhìn thấy nó.
Nếu không có chánh niệm, chắc cuộc đời tôi sẽ chẳng khác gì một trò đùa nhạt
như nước ốc.
Thấy ra những hạn chế của chính mình, đối với tôi thật khó để thấy được
mình đang bị kẹt chỗ nào vào làm thế nào để thoát khỏi chỗ kẹt đó. “Tất cả mọi
người đang mắc kẹt”. Chỉ khi nào bạn thấy rõ mình đang bị kẹt chỗ nào, khi ấy
bạn mới có cơ hội để thoát khỏi nó.
Mọi người cứ làm như thể họ biết rõ họ đang làm gì. Có thực là họ biết rõ
mình đang làm gì không?
Tự lừa dối chính mình. Đôi khi nó quá hoàn hảo đến nỗi chính bạn cũng không
ý thức được điều đó. Bản năng tự vệ khiến cho bạn mù quáng trước khuyết điểm
của chính mình (tự lừa dối). Chúng ta tự lừa dối rằng mình đang hạnh phúc. Đôi
khi thật là đau đớn khi nhìn ra những khuyết điểm của chính mình; điều đó đòi
hỏi rất nhiều dũng cảm, sự trung thực và chánh niệm.
Tôi có thể là một kẻ đại ngu. Nhưng khi tôi nhìn thấy nó và chấp nhận nó,
tôi sẽ không sa chân xảy bước vào rắc rối lớn. Thậm chí tôi còn có vẻ là một
người trí tuệ nữa. Sự ngu ngốc được kiểm soát đôi khi trông giống như là trí
tuệ thật.
Chấp nhận những điều không thể
tránh khỏi là điều vô cùng quan trọng đối với
sự bình an của tâm hồn.
Vô thường (anicca) thực sự là một điều vượt ra ngoài tầm tri thức.
Dựa trên kiến thức sách vở mà hiểu biết về vô thường thì chỉ là hiểu ở tầm tri
thức mà thôi. Khi bạn thực sự thấy vô thường, nó là cái mà bạn phải kinh nghiệm
trực tiếp trong hiện tại. Không có suy nghĩ trong đó. Thật là khó để diễn giảng
mọi điều trong một bức thư. Quá nhiều điều để nói, quá ít chỗ để viết!
Nhưng mà cuối cùng, những gì tôi vừa nói cũng chẳng có gì là quan trọng cả.
Chẳng có gì lớn lao cả. Có thể là vô ích nữa. Những gì tôi không nói, những gì
tôi không thể nói thành lời, đối với tôi còn quan trọng hơn. Như thế này chỉ là
“cưỡi ngựa xem hoa” thôi.
Khi tâm tôi tĩnh lặng, tôi chẳng có gì trong tâm để mà viết cả.
Nếu bạn muốn sự thật
Tôi sẽ nói cho bạn biết sự thật
Bạn ơi, nghe này:
Thượng Đế, người tôi yêu kính, là ở bên
trong mình.
KABIR
Con người tạo ra tư tưởng,
và những tư tưởng đó trở thành nhà tù.
Nhưng người nào nhìn xuyên qua bức tường ấy,
sẽ vượt qua được chúng.
Nếu bạn có thể hành thiền tốt, thì tấm vải nào bạn mặc trên người chẳng
thành vấn đề. Nhãn mác chẳng có mấy ý nghĩa nếu bạn biết chúng để làm gì. Nhưng
con người ta thường hay dính mắc vào nhãn mác, bao bì bên ngoài. Tùy bạn quyết
định muốn giữ bao nhiêu giới thì giữ.
Hãy chọn một hoặc hai đề mục thích hợp đối với bạn, và hãy chánh niệm hay
biết chúng liên tục. Sự liên tục là điểm quan trọng nhất. Suy nghĩ không làm
cho tâm ta an lạc. Hãy quan sát suy nghĩ mà đừng mong kiểm soát chúng. Khi bạn
thấy chúng thật rõ ràng, chúng sẽ dừng lại.
Tôi chuẩn bị dành một thời gian hành thiền tích cực hơn. Tâm tôi quá đầy
những chuyện thế gian. Thời gian vừa qua tôi đã đi lại và nói quá nhiều. Bây
giờ tôi muốn tĩnh lặng trở lại. Suy nghĩ thật là một gánh nặng.
Một mình tôi trên thuyền giữa biển cả; Một mình không radio liên lạc, nhưng
tôi có chiếc la bàn là chánh niệm.
Khi các suy nghĩ của bạn trở nên cực đoan và bạn không muốn mình bị hiểu
nhầm, bạn im lặng hoặc sẽ nói những điều thực sự mình chẳng thích nói. Bạn nói
những điều gần gần với những gì mình muốn nói, nhưng lại nói theo cách mà chẳng
ai hiểu bạn nói gì cả. Có đôi khi bạn thấy thích thú khi họ chẳng hiểu bạn nói
gì. Tại sao bạn lại muốn nói ra những suy nghĩ của mình? Đó cũng là một sự dính
mắc nữa. Nếu bạn buông bỏ sự dính mắc đó, sẽ còn lại sự tĩnh lặng và bình an.
Lúc nào cũng cứ phải chống đối, phản ứng lại mọi người và hoàn cảnh, dù sự
phản ứng ấy không mạnh, cũng đủ làm cho tâm mình căng thẳng, bức xúc. Về lâu về
dài, nó làm cho tâm mình kiệt sức.
Hãy quan sát tâm bạn và xem mức độ
phản ứng đối với những tình huống kể cả thực
lẫn tưởng tượng như thế nào.
Hãy quan sát sự căng thẳng, bức xúc của tâm mình.
Tốt hơn cả là hãy sống ở một nơi bạn không phải chống đối và phản ứng suốt
ngày như thế. Có thể bạn sẽ phải sống một mình (nếu bạn có thể chịu đựng nổi sự
cô đơn).
Càng cảm nhận sâu sắc, bạn càng phải im
lặng về những cảm xúc của mình. Những điều không thể nói ra, chúng
ta phải giữ im lặng.
WITTGENSTEIN
Bị hiểu nhầm thật là điều đáng ghét. Hầu hết mọi người không có ai đủ can
đảm để thấy và chấp nhận sự thật cả. Họ chỉ muốn cái gì đó khiến cho họ hạnh
phúc. Sự thật đôi khi thật đáng sợ đối với họ. Thực sự vậy. Vỡ mộng là điều
đáng sợ. Bạn không còn gì để bám víu nữa. Ngay cả Pháp. (mà bạn hiểu Pháp là
gì?). Chỉ có cái thấy, chỉ có cái hiểu. Hầu hết tất cả mọi người đều tìm kiếm
cái gì đó để bám víu vào – một lý tưởng; một mục đích; một phương pháp; một
cộng đồng; một tôn giáo; một tổ chức; bất cứ cái gì họ có thể tự đồng hóa mình
với nó được.
Bạn có luôn thực hành chánh niệm trong mọi lúc không?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét