1.1. Đức
Phật
Sơ lược cuộc đời Đức Phật:
Đức Phật( bậc giác ngộ), là một nhân vật có thật
trong lịch sử. Ông là hoàng tử của một vương quốc nhỏ thuộc về lãnh thổ Nepal-
Bắc Ấn Độ hiện nay vào khoảng năm 624
trước Công Nguyên
Mặc dù bản thân được hưởng thụ đầy đủ tiện
nghi vật chất và được cha mẹ, người thân
thương yêu, kính trọng nhưng ông đã nhận ra rằng con người không ai
thoát khỏi cái khổ cúa tâm Tham, Sân, Si, để rồi bị cuốn vào vòng xoáy bất tận
cúa Sinh- Già- Bệnh- Chết, rồi lại tái sinh, chịu khổ mãi mãi không ngừng. Chàng
hoàng tử đã xúc động sâu xa, và muốn tìm ra con đường đưa mọi
người tới hạnh phúc mãi mãi và năm 29 tuổi, chàng từ giã vợ con, và tìm học với các bậc đạo sư vĩ đại đương thời.
Cuối cùng, sau 6
năm tự tu khổ hạnh và 49 ngày thiền quán dưới cội cây Bồ đề, chàng đã trở thành Phật-đà (Buddha),
một bậc Giác Ngộ. Ngài đã chu du khắp miền Bắc Ấn độ để truyền dạy cho mọi người
những gì mà ngài đã chứng ngộ. Những lời giảng dạy cúa Đức Phật tràn đầy từ bi
và trí tuệ vẫn còn lưu truyền đến ngày nay như ngọn đuốc chỉ đường cho hàng triệu
người tìm được chân giá trị cúa hạnh phúc.
Đức Phật là một vị thầy chỉ đường
vĩ đại
- Đức
Phật là cũng là một con người như chúng ta. Ngài sanh ra là một người, sống như một người, và từ giã cõi đời như một
người. Mặc dầu là người, Ngài trở thành một người phi thường, một bậc siêu
nhân, do những cá tính ưu việt của Ngài. Đức Phật đã ân cần nhắc nhở nhiều lần
như vậy và không có điểm nào trong đời sống hoặc trong lời dạy của Ngài để chúng
ta lầm hiểu rằng Ngài là một nhân vật vô sanh bất diệt.
- Không bao giờ Đức Phật cưỡng bách tín đồ phải làm nô lệ cho giáo lý của
mình hay cho chính mình. Những ai bước theo dấu chân Ngài đều được tự do tư tưởng.
Ngài khuyên dạy hàng môn đệ không nên nhắm mắt chấp nhận những lời của Ngài chỉ
vì kính nể, tôn trọng, nhưng phải xem xét, nghiên cứu, suy niệm cẩn thận
- Đức Phật minh bạch dạy rằng:
"Các con phải tự mình nỗ lực. Các đấng Như Lai chỉ là đạo
sư."
- Đức Phật chỉ vạch cho ta con đường và phương pháp mà ta có thể nương theo đó để tự giải thoát ra khỏi mọi khổ đau của vòng sanh tử và thành tựu mục tiêu cứu cánh
- Đức Phật chỉ vạch cho ta con đường và phương pháp mà ta có thể nương theo đó để tự giải thoát ra khỏi mọi khổ đau của vòng sanh tử và thành tựu mục tiêu cứu cánh
- Đức Phật cũng
không bao giờ tự gọi là "Đấng Cứu Thế" có quyền năng cứu vớt kẻ khác.
Ngài khẳng định rằng con người phải tự nhận trách nhiệm thay đổi và hoàn thiện
chính mình, ỷ lại nơi người khác sẽ không thể thành công. Ngài nhấn mạnh “Mỗi
chúng sinh là chủ nhân của Nghiệp do mình tạo ra”, “Không ai có thể cứu mình
ngoài chính mình”.
1.2. Đạo Phật là gì?
Đạo Phật là con đường của HIỂU BIẾT
và YÊU THƯƠNG
Đạo
có nghĩa là con đường, Phật có thể hiểu là Đức Phật hoặc Đấng
Giác Ngộ. Từ đó có thể định nghĩa Đạo Phật chính là con đường mà Đức Phật đã
thực hành, con đường đi đến giác ngộ và giải thoát, chấm dứt mọi đau khổ, phiền
não (tham, sân, si), không còn luân hồi sinh tử. Và chính bởi Đạo Phật ra đời
cho mục đích thoát khổ của tất thảy chúng sinh dựa trên trí tuệ giác ngộ nên Đạo
Phật chính là con đường của sự hiểu biết và tình yêu thương.
Đạo Phật và Triết học
-
Triết học được hiểu là một hệ thống lý luận, khái niệm,
giải thích các sự vật
hiện tượng dưới tư duy logic.
-
Đạo Phật cũng bao hàm 1 hệ thống
lý luận với những kiến thức phân tích về con người và hỗ trợ con người đi tới
giải thoát. Tuy nhiên lý thuyết cúa Đạo Phật dùng để hỗ trợ cho việc kiểm chứng,
trực nhận qua kinh nghiệp bản thân nên mang tính thực
hành, ứng dụng và chứng ngộ rất cao.
Đạo Phật và Tôn Giáo
-
Phật Giáo không phải là một tôn giáo (religion) bởi vì Phật Giáo không phải là
"một hệ thống tín ngưỡng và tôn sùng lễ bái", trung thành với một thần
linh siêu nhiên.
-
Phật Giáo không đòi hỏi nơi tín đồ một đức tin mù quáng. Do đó một niềm tin tưởng
suông không thể có chỗ đứng. Thay vào đó là lòng tín nhiệm căn cứ trên sự hiểu
biết.
Dầu sao, nếu hiểu rằng tôn giáo là giáo
lý nhìn vào đời sống sâu hơn là lớp vỏ bên ngoài, giáo lý nhìn ngay vào bên
trong đời sống, thay vì chỉ nhìn trên mặt, giáo lý cung hiến cho – Phật giáo
cung cấp cho con người một thái độ sống phù hợp với "cái nhìn sâu xa vào bản
chất con người, giúp cho những ai cố gắng, có thể đối phó mạnh mẽ với kiếp sinh
tồn và trực diện cái chết một cách bình tĩnh và yên lành", hay một hệ thống
giúp giải thoát ra khỏi những hình thức đau khổ của đời sống. Nếu gọi đó là tôn
giáo thì chắc chắn Phật Giáo là tôn giáo của các tôn giáo.
Đạo Phật và Khoa học:
- Khoa học luôn thực tiễn và ứng dụng cao, các kiến thức
khoa học được hệ thống, chứng minh dựa trên thực nghiệm cụ thể, logic và không
có yếu tố bí ẩn, thần linh.
- Tính khoa học, tư duy hệ thống, logic có thể xuyên suốt
trong hầu hết tất cả các Giáo Pháp của Đức Phật: Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Lý
Nhân quả, Vi Diệu Pháp…Tất cả đều được trình bày rõ ràng, khúc chiết, tuần tự,
thứ lớp trong Giáo Pháp Ngài để lại.
Bên cạnh đó, tinh thần khoa học trong Phật giáo càng rõ
ràng hơn qua lời khuyên của Ðức Phật, rằng chúng ta không nên tin tưởng một
cách mù quáng mà ngược lại phải đặt vấn đề , tìm hiểu và thẩm tra, nhờ vào kinh
nghiệm của chính mình rồi mới tin, có như thế tính chất khoa học mới được rõ
ràng. Vì thế chúng ta có thể nói rằng mặc dù Phật giáo không hoàn toàn khoa
học, nhưng hẳn đã mang tính khoa học mạnh mẽ và có tính khoa học hơn các tôn
giáo khác. Chính Albert Einstein (1879-1955) một nhà khoa học vĩ đại
nhất của thế kỷ hai mươi đã nói về tính khoa học của Phật giáo như sau:
"Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt
lên trên mọi tinh thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả
phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát
xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trong cái nhất thể đầy đủ ý
nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó. Và nếu có bất cứ một tôn
giáo nào có thể đương đầu với những nhu cầu của nền khoa học hiện đại, thì đó
là Phật giáo vậy."
1.3. Các tông phái khác nhau trong
Phật Giáo Việt Nam:
Do yếu tố địa lý, lịch sử của Việt Nam nên có nhiều Tông
Phái Phật giáo khác nhau ở Việt Nam. Phật Giáo từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc
và sau đó truyền sang Việt Nam được gọi là Bắc Tông gồm có Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật
tông… Còn Phật Giáo từ Ấn Độ truyền sang Myanma-Thái Lan-Campuchia đến Việt nam
đươc gọi là Nam Tông hay Phật Giáo Nguyên Thủy.
Đạo Phật được truyền
đi các nước khác ngoài Ấn Độ và mang nặng bản sắc của các nước đó, nhưng tất cả đều là Phật giáo và đều có chung một
vị - vị giải thoát và tâm điểm vẫn là giáo lý Tứ diệu đế và Bát chánh đạo.
II. GIỚI THIỆU VỀ
THIỀN VIPASSANA – THIỀN NGUYÊN THỦY
2.1. Vipassana
nghĩa là gì?
Có nhiều cách
gọi tên thiền Vipassana như Thiền Nguyên Thủy, Thiền Minh Sát, Thiền Quán. Tuy
nhiên, tất cả những tên này đều nhằm chỉ một phương pháp Thiền mà chính Đức Phật
đã thực hành và chứng ngộ.
Mục đích của
Thiền Vipassana là thanh lọc tâm thức khỏi những phiền não (tham, sân, si),
phát triển những đặc tính tốt của tâm (lòng từ bi, sự hiểu biết), từ đó có thể
trực nhận ra bản chất của tất cả các sự vật hiện tượng là bất toại nguyện, vô
thường và vô ngã, đạt đến giác ngộ.
2.2. Thiền
Minh Sát (Vipassana) đem lại lợi ích gì cho tôi?
Mục tiêu tối hậu
của Thiền Minh Sát là để loại trừ những phiền não Tham- Sân - Si trong tâm. Trước khi đạt được mục
tiêu này thiền sinh sẽ có được những lợi ích thực tại như sẽ có được một tâm hồn
bình an và tĩnh lặng và có đủ khả năng để chấp nhận những gì xảy ra đến cho
mình một cách bình tĩnh, sáng suốt mà không bị rơi vào các thái cực của cảm
xúc.
Thiền minh sát
cũng giúp chúng ta hiểu được bản thân hơn qua việc quan sát các hiện tượng diễn
ra trên thân (cơ thể, hoạt động) và tâm (suy nghĩ, xúc cảm) của chính mình. Thiền
sinh sẽ có cơ hội quán sát để nhìn rõ được những đặc tính, những diễn biến cảm
xúc bên trong mình, thông quá đó phát triển được sự hiểu biết và tình yêu thương.
2.4. Thiền
Minh Sát có khó thực hành không?
Việc hành thiền
không phải dễ, bởi vì việc quan sát tâm và giữ tâm trên các đối tượng đúng
(thân, tâm của mình) đòi hỏi lòng kiên trì và nỗ lực, bởi tâm con người luôn vọng
động và chạy theo các đối tượng bên ngoài.
Mặt khác, Thiền
Minh Sát cũng rất dễ thực hành vì không cần phải sửa soạn lễ nghi hay phải có điều
kiện đặc biệt mới có thể thực hành. Môi trường sống bình thường với gia đình, công việc vẫn là điều kiện để bạn
hành thiền Minh Sát.
2.5. Có thể áp
dụng Thiền Minh Sát vào đời sống hàng ngày không?
Bạn có thể
"tỉnh thức" trong mọi tác động bạn đang làm. Bất kỳ bạn đang làm việc,
đang đi, đang nói, v.v..., bạn đều có thể thiền. Mặc dầu mức độ tỉnh thức trong
lúc hoạt động không mạnh bằng lúc ngồi thiền hay lúc đang theo một khóa thiền tập
nhiều ngày, nhưng nói chung trong lúc hoạt động bạn vẫn tỉnh thức được. Áp dụng
thiền minh sát vào đời sống bạn có thể đối phó với các trạng thái tâm tiêu cực
cúa chính bạn một cách có hiệu quả.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét